Thứ Ba, 20 tháng 5, 2014

Đại Chiến Thế Giới Z (END)

EBOOK ĐẠI CHIẾN THẾ GIỚI Z - MAX BROOKS

TÊN EBOOK: ĐẠI CHIẾN THẾ GIỚI Z

Tên gốc: Worl War Z
Tác giả: Max Brooks
Thể loại: Best seller, Giả tưởng, Tiểu thuyết, Zombie, Văn học phương Tây
Nguồn: BookismVietNam
Đọc online tại: e-thuvienonline.blogspot.com

ebook dai chien the gioi z full prc pdf epub

Ebook Đại Chiến Thế Giới Z - Max Brooks

TẠM BIỆT
            BURLINGTON, VERMONT
            [Tuyết đã bắt đầu rơi. Một cách miễn cưỡng, “lão khùng” quay bước trở về nhà.]
            Anh có biết Clement Attlee không? Tất nhiên là không rồi, biết để làm gì? Thằng đó đúng là một kẻ vô dụng, một tay tầm thường hạng ba chui được vào trong sách sử chỉ vì đã chiếm ghế của Winston Churchill trước khi Thế Chiến Thứ Hai chấm dứt. Cuộc chiến ở Châu u đã kết thúc và người dân Anh cảm thấy họ đã phải chịu đựng đủ rồi, nhưng Churchill vẫn muốn giúp Mỹ chống Nhật, tuyên bố rằng chừng nào cuộc chiến vẫn chưa kết thúc ở khắp mọi nơi, điều ấy có nghĩa là nó vẫn còn tiếp diễn. Và thử nhìn xem chuyện gì đã xảy đến với con sư tử già ấy. Chúng tôi không muốn bộ máy điều hành của mình bị như vậy. Chính thế mà khi lục địa Mỹ được giải phóng chúng tôi tuyên bố chiến thắng ngay.
            Ai cũng biết cuộc chiến chưa thực sự kết thúc. Chúng tôi vẫn phải giúp đỡ những đồng minh của mình và dọn dẹp những nơi vẫn còn bị thây ma cai trị trên thế giới. Vẫn còn rất nhiều việc phải làm, nhưng bởi vì nhà cửa chúng ta đã gọn gàng ngăn nắp rồi, chúng ta phải cho người dân được quyền trở về. Đó là khi lực lượng da quốc gia của Liên Hợp Quốc được thành lập, và chúng tôi ngạc nhiên một cách sung sướng khi thấy mới chỉ có tuần đầu mà đã có nhiều tình nguyện viên đến thế. Chúng tôi thậm chí còn phải từ chối một số người, cho họ vào danh sách dự bị hoặc giao họ nhiệm vụ huấn luyện những tay lính trẻ không có cơ hội tham gia cuộc càn quét khắp toàn bộ nước Mỹ của ta. Tôi biết mình bị trỉ trích nhiều vì lựa chọn Liên Hợp Quốc chứ không thành lập một đội quân chỉ có người Mỹ, và nói thật, tôi cũng chẳng thèm quan tâm. Nước Mỹ là một quốc gia công bằng, người dân của nó muốn có một giao kèo công bằng, và khi giao kèo đó chấm dứt trên biển Đại Tây Dương, anh phải bắt tay họ, trả tiền cho họ, và để cho bất cứ ai muốn có lại một đời sống riêng tư.
            Có thể nó đã khiến cho các chiến dịch ở nước ngoài của ta bị chậm lại một chút. Các đồng minh của ta đã bắt đầu tự đứng được trên đôi chân của mình, nhưng chúng tôi vẫn còn vài Vùng Trắng cần phải xử lí: các dãy núi, các đảo tuyết, đáy biển, và rồi còn cả Iceland nữa…Iceland sẽ khó nhằn đây. Ước gì bọn Ivan cho chúng tôi cùng hỗ trợ dọn dẹp Siberia, nhưng dù sao thì Ivan vẫn cứ là Ivan. Và chúng ta thỉnh thoảng vẫn bị tấn công ngay trên sân nhà cứ mỗi dịp xuân về, hay gần các hồ và bãi biển. Ơn trời là số vụ tấn công đang giảm dần, nhưng điều đó không có nghĩa là thiên hạ được phép mất cảnh giác. Chúng ta vẫn đang trong thời kì chiến tranh, và cho đến khi mọi dấu vết của chúng đã được thanh trừng, gột rửa và nếu cần thiết, xóa sổ khỏi bề mặt Trái Đất, mọi người sẽ vẫn phải chung tay góp sức thực hiện nghĩa vụ của mình. Sẽ rất tuyệt vời nếu đó là bài học mọi người rút ra được sau những tháng ngày đau khổ này. Chúng ta đòng cam cộng khổ, vậy hãy chung tay góp sức mà hoàn thành nghĩa vụ của mình.
            [Chúng tôi dừng lại bên một cây sồi già. Người bạn đồng hàng của tôi nhìn nó từ gốc đến ngọn, nhẹ nhàng lấy cây gậy chọc chọc nó. Và rồi ông nói với cái cây…]
            Chú mày làm tốt lắm.
            KHUZHIR, ĐẢO OLKHON, HỒ BAIKAL, THÁNH QUỐC NGA
            [Một cô y tá chen vào giữa cuộc phỏng vấn của chúng tôi để cho Maria Zhuganova uống mấy viên vitamin trước sinh. Maria đang mang bầu bốn tháng. Đây sẽ là đứa con thứ tám của chị.]
            Tôi chỉ tiếc mỗi chuyện không được ở lại trong quân đội để “giải phóng” nước cộng hòa cũ của mình. Chúng tôi đã thanh trừng hết lũ zombie bẩn thỉu ra khỏi Mẹ Tổ Quốc, và giờ đã đến lúc bước ra ngoài biên giới quốc để gia tham chiến. Ước gì tôi được ở đó, cái ngày chúng tôi sát nhập lại Belarus và với vương quốc của mình. Họ nói rằng sắp tới sẽ là Ukraine, còn sau đó nữa thì ai biết. Ước gì tôi cũng có thể tham gia, nhưng tôi có những “nhiệm vụ khác”…
            [Chị nhẹ nhàng vỗ vào bụng mình.]
            Tôi chẳng biết trên khắp Rodina có bao nhiêu phòng khám như thế này nữa. Chắc chắn là không đủ. Rất ít những phụ nữ trẻ, còn khả năng sinh sản như tôi không bị nghiện ngập, nhiễm AIDS hay trở thành thây ma. Các nhà lãnh đạo của chúng tôi nói rằng thứ vũ khí lợi hại nhất trong tay người phụ nữ Nga hiện nay chính là tử cung của họ. Nếu điều đó đòng nghĩa với việc không bao giờ được biết mặt cha những đứa con của tôi, hay…
            [Mắt chị thoáng đánh xuống dưới.]
            …đến tận cả những đứa con của tôi, thì thế cũng được. Tôi phục vụ Mẹ Tổ Quốc, và tôi phục vụ bà với toàn bộ trái tim mình.
            [Chị bắt gặp ánh nhìn của tôi.]
            Có phải anh đang băn khoăn không hiểu sao cái “sự tồn tại” này lại có thể phù hợp với chính sách của một nhà nước chính thống kiểu mới như thế này đúng không? Anh có thể ngưng được rồi đấy, bởi vì nó không thể. Ba cái mớ giáo điều kia là dành cho quần chúng nhân dân. Cho họ chút thuốc phiện để họ ngoan ngoãn vâng lời. Tôi không nghĩ có ai trong số những nhà lãnh đạo của chúng tôi, hay thậm chí cả Giáo hội, thực sự tin vào những gì mình đang rao giảng, có lẽ cùng đã có một người, Lão Cha Ryzhkov già trước khi bị tống vào vùng hoang dã. Lão ấy không còn thứ gì nữa, không như tôi. Tôi vẫn còn có thể cống hiến cho Mẹ Tổ Quốc thêm vài đứa trẻ nữa. Đó là lí do tôi được đối xử tử tế đến vậy, được phép nói năng tự do đến vậy.
            [Maria liếc về phía tấm kính một chiều đằng sau lưng tôi.]
            Họ định làm gì tôi? Đằng nào thì tôi không còn hữu ích nữa, tôi cũng đã sống lâu hơn nhiều phụ nữ khác rồi.
            [Chị làm một cử chỉ rất thô tục vè phía tấm kính.]
            Và ngoài ra, họ muốn anh được nghe câu chuyện này. Đó là lí do họ cho anh nhập cảnh, để lắng nghe câu chuyện của chúng tôi, đẻ hỏi những câu muốn hỏi. Anh cũng biết là mình đang bị lợi dụng, đúng không? Nhiệm vụ của anh là phải kể lại câu chuyện của đất nước chúng tôi cho nhân dân của mình, cho họ thấy chuyện gì sẽ xảy ra nếu có người định nhờn mặt với chúng tôi. Cuộc chiến đã đưa chúng tôi về lại với cội nguồn, giúp chúng tôi nhớ ra thế nào là một người Nga chân chính. Chúng tôi lại trở nên mạnh mẽ, chúng tôi lại được nể sợ, và đối với dân tộc Nga,điều ấy đồng nghĩa với việc cuối cùng thì chúng tôi cũng lại được an toàn! Lần đầu tiên trong vòng gần một thế kỉ, chúng tôi có thể cảm thấy ấm áp trong bàn tay bao bọc của một Caesar, và tôi chắc anh cũng biết trong tiếng Nga từ Caesar nghĩa là gì.
            BRIDGETOWN, BARBADOS, LIÊN BANG TY ẤN
            [Quầy rượu gần như đã trống vắng. Hầu hết đám khách khứa ở đây đã tự bỏ đi hoặc bị cảnh sát lôi đi. Những nhân viên trực đêm cuối cùng đang thu dọn những cái ghế gãy, mấy cái li vỡ và lau đi những vũng máu trên sàn. Ở trong góc quán, những người Nam Phi say xỉn cuối cùng đang hát bài ca trong thời chiến “Asimbonaga” của Johnny Clegg một cách tràn đầy cảm xúc. T. Sean Collins lơ đãng ngâm nga vài âm rồi uống nốt chỗ rượu rum còn lại và nhanh cóng ra hiệu lấy thêm li nữa.]
            Tôi bị nghiện giết chóc, và nói thế là đã tử tế lắm rồi. Anh có thể nói rằng như thế không hẳn là chính xác, chúng chết hết rồi nên tôi cũng không hẳn là giết ai. Vớ vẩn; tất cả đều là giết chóc hết, và nó khiến máu trong người anh sôi lên sùng sục. Vâng, tôi có thể nói xấu mấy tay lính đánh thuê hồi trước chiến tranh thoải mái, bọn cựu binh Việt Nam và Hell’s Angel, nhưng giờ đây tôi chẳng khác gì bọn họ, chẳng khác gì những tên đặc công rừng chẳng bao giờ về được nhà, kẻ cả khi xác có về được đến nơi, hay những tên phi công thời Thế Chiến Thứ Hai sẵn sàng đổi xe Mustangs lấy xe máy. Anh sống trong giai đoạn lúc nào cũng căng thẳng nên những thứ khác đối với anh chẳng khác nào án tử.
            Tôi đã cố hòa nhập lại, ổn định cuộc sống, giao hảo bạn bè, kiếm một công việc và cùng góp tay giúp xây dựng lại nước Mỹ. Nhưng tôi không chỉ đã chết, lúc nào tôi cũng nghĩ về việc giết chóc. Tôi bắt đầu nghiên cứu cổ, đầu người khác. Tôi nghĩ, “Hmmmm, thằng cha kia thùy trán chắc dày lắm, mình phải đi đằng hốc mắt.” Hoặc là “nện một phát vào chỗ hậu chẩm chắc sẽ khử được ả kia nhanh thôi.” Và rồi đến ông tổng thống mới, “lão khùng” — Lạy Chúa, tôi là cái quái gì mà được gọi người khác như vậy chứ? — khi tôi nghe ông ta phát biểu ở một cuộc mít tinh, tôi nghĩ ra ít nhất năm mươi cách để hạ gục ông ta. Đó là lúc tôi phải ra đi, vì lợi ích của người khác cũng như của mình. Tôi biết sẽ đên một ngày tôi chạm giới hạn, uống say, dính vào một vụ ẩu đả, mất kiểm soát. Tôi biết một khi bắt đầu, tôi sẽ không dừng được, vậy nên tôi chào tạm biệt và tham gia vào nhóm Impisi, cùng tên với Lực Lượng Đặc nhiệm Nam Phi. Impisi: trong tiếng Zulu là Linh cẩu, những kẻ dọn dẹp xác chết. Chúng tôi là một đơn vị tư nhân, không có luật lệ, không băng rôn, chính vì vậy mà tôi chọn họ chứ không vào Liên Hợp Quốc. Chúng tôi tự đặt giờ làm việc, tự chọn vũ khí.
            [Anh chỉ vào thứ trông như một cái mái chèo bằng thép được vót nhọn ở bên cạnh mình.]
            “Pouwhenua” — kiếm được nó từ một người anh em Maori, cầu thủ đội All Blacks hồi tiền chiến. Bọn Maori này gớm lắm. Trong trận ở One Tree Hill, chỉ năm trăm người bọn họ chống lại nguyên một nửa đất nước Auckland đầy thây ma. Pouwhenua là một thứ vũ khí khó dùng, mặc dù chiếc này làm bằng thép chứ không phải gỗ. Nhưng đó là lợi thế của việc làm lính đánh thuê. Bóp cò thì làm sao mà hăng tiết lên được? Phải khó khăn, phải nguy hiểm, và càng có nhiều G thì càng tốt. Tất nhiên, sớm muộn gì rồi thì cũng sẽ chẳng còn con nào nữa. Và khi điều ấy xảy ra…
            [Đúng lúc đó chiếc Imfingo rung hồi chuông báo rời bến.]
            Tàu của tôi đây rồi.
            [T. Sean ra hiệu cho người bồi bàn, sau đó thảy một đồng xu bạc lên bàn.]
            Tôi vẫn còn chút hi vọng. Nghe có vẻ điên, nhưng biết đâu được. Chính vì thế mà tôi tiết kiệm phần lớn số tiền kiếm được thay vì cống lại cho nước chủ nhà hoặc tiêu pha vào những thứ có trời mới biết. Chuyện đó có thể xảy ra, mọi thứ có thể chấm dứt được. Một người anh em Canada của tôi, “Mackee” Macdonald, ngay sau khi dọn dẹp xong hòn đảo Baffin, hắn quyết định mình đã chịu đủ rồi. Tôi nghe đồn giờ hắn đang ở Hi Lạp, trong một tu viện hay gì đó. Chuyện ấy có thể xảy ra. Có lẽ vẫn còn một cuộc sống bình thường dành cho tôi. Tôi được phép mơ chứ, đúng không? Tất nhiên, nếu chuyện đó không xảy ra, nếu đến một ngày không còn Zack nữa mà mọi sự vẫn chưa chấm dứt…
            [Anh đứng dậy rời đi, khoác vũ khí lên vai.]
            Thì cái sọ cuối cùng tôi phải đập có lẽ sẽ là của chính tôi.
            CÔNG VIÊN HOANG DÃ TỈNH SAND LAKES, MANITOBA, CANADA
            [Jesika Hendricks cho nốt “mẻ” cuối cùng trong ngày lên xe trượt tuyết, mười lăm cái xác và một núi các mảnh thi thể.]
            Tôi cố gắng không cảm thấy tức giận hay cay đắng vì sự bất công này. Tôi ước gì mình có thể hiểu hết sự tình. Có lần tôi được gặp một cựu phi công Iran đang đi lang thang ở Canada tìm chỗ định cư. Anh ta nói rằng dân Mỹ là những người duy nhất anh ta từng gặp mà lại không thể chấp nhận rằng người tốt có thể gặp chuyện xấu. Có lẽ anh ta nói đúng. Tuần trước tôi có nghe đài và vô tình nghe đúng kênh [Tên được giấu vì nguyên do pháp lí]. Anh ta vẫn làm những trò như thường lệ — đùa tục và văng bậy và động đến việc quan hệ tình dục tuổi vị thành niên — và tôi có nghĩ, “Tay này sống sót còn bố mẹ mình thì không.” Không, tôi cố không cảm thấy xót xa.
            TROY, MONTANA, MỸ
            [Bà Miller và tôi đứng trên sàn phía sau, ở bên dưới là lũ trẻ con đang chơi ở sân chính.]
            Anh có thể đổ lỗi cho giới chính trị gia, giới thương nhân, các vị tướng, cho “bộ máy,” nhưng thực chất nếu anh muốn đổ lỗi cho ai đó, hãy đổ lỗi cho tôi. Tôi là hệ thống của nước Mỹ, tôi là bộ máy. Đó là cái giá phải trả khi sống trong nền dân chủ; ai cũng phải chịu trách nhiệm. Tôi hiểu tại sao Trung Quốc phải mất lâu đến thế mới chấp nhận nó, và tại sao Nga lại nói “kệ mẹ nó” và quay trở về với cái hệ thống hiện tại của họ. Thật là tuyệt vời khi có thể nói, “Ê, đừng nhìn tôi, đâu phải lỗi của tôi.” Thực ra thì đúng vậy đấy. Đó là lỗi của tôi và lỗi của tất cả những người thuộc thế hệ tôi.
            [Bà nhìn xuống chỗ bọn trẻ.]
            Không biết các thế hệ tương lai sẽ nói gì về chúng ta nhỉ. Ông bà tôi đã trải qua cuộc Đại Suy Thoái, Thế Chiến Thứ Hai, và rồi quay trở về xây dựng nên một giai cấp trung lưu lớn nhất trong lịch sử nhân loại. Có Chúa chứng giám, họ không hoàn hảo gì cho cam, nhưng họ cũng gần như đã đạt được giấc mơ Mỹ. Sau đó đến thời bố mẹ tôi và mọi thứ lộn tùng phèo hết cả — sự bùng nổ dân số, thế hệ của “cái tôi.” Và rồi đến lượt chúng ta. Vâng, chúng ta đã chặn được đại dịch zombie, nhưng cũng chính chúng ta là kẻ đã để cho nó lên tầm đại dịch. Ít nhất bây giờ chúng ta đang tự dọn dẹp đống bừa bộn của mình, và có lẽ đó là thứ văn bia tốt nhất ta có thể hi vọng đạt được. “Thế hệ Z, họ tự lau dọn đống bày bừa của mình.”
            TRÙNG KHÁNH, CHINA
            [Kwang Jingshu đến khám nhà bệnh nhân cuối cùng trong ngày, một cậu bé bị bệnh đường hô hấp. Mẹ thằng bé lo rằng nó lại bị bệnh lao. Mặt bà có lại chút sắc khi ông bác sĩ trấn an rằng nó chỉ bị viêm phế quản. Bà nước mắt ngắn dài tiễn chúng tôi ra con đường bụi bặm.]
            Thật là dễ chịu khi lại được thấy mặt bọn trẻ, ý tôi là những đứa được sinh ra sau chiến tranh, những đứa không biết gì về một thế giới có thây ma. Chúng biết không được chơi gần chỗ nước non, không được ra ngoài chơi một mình hoặc sau khi trời tối khi xuân hoặc hạ về. Chúng không biết sợ, và đó chính là món quà quí giá nhất, món quà duy nhất ta có thể ban lại cho chúng.
            Đôi khi tôi có nghĩ về cái bà già ở khu Đại Xưởng Mới, về những gì bà ấy đã trải qua, những cuộc biến động tưởng như không bao giờ dứt đã làm nên thế hệ của bà ta. Giờ ba ta chính là tôi, một lão già phải chứng kiến đất nước này bị phân tán quá nhiều lần. ý vậy mà lần nào chúng tôi cũng bình tĩnh lại, xây dựng lại và đổi mới đất nước. Và chúng tôi sẽ một lần nữa thực hiện được điều đó — Trung Quốc, và cả thể giới. Tôi không tin vào cuộc sống sau cái chết — dù đến chết vẫn là một nhà cách mạng — nhưng nếu nó có tồn tại thật, tôi có thể tưởng tượng ra cảnh lão đồng chí già Gu cười vào mặt tôi khi tôi chân thành nói rằng mọi thứ rồi sẽ ổn thôi.
            WENATCHEE, WASHINGTON, MỸ
            [Joe Muhammad vừa hoàn thiện xong kiệt tác mới nhất của mình, bức tượng một đàn ông cao hơn ba mươi phân đeo một cái Baby Bjorn rách nát, bước đi ra dáng loạng choạng, đôi mắt vô hồn nhìn thẳng về phía trước.]
            Tôi sẽ không nói cuộc chiến là một điều tốt. Tôi không bệnh hoạn đến thế, nhưng anh cũng phải công nhận rằng nó đã giúp mọi người trở nên gần gũi nhau hơn. Bố mẹ tôi hồi trước luôn mồm nói họ nhớ cái cảm giác cộng đồng khi còn ở Pakistan. Họ không bao giờ nói chuyện với những người hàng xóm ở Mỹ, không bao giờ mời họ sang nhà chơi, gần như chẳng buồn nhớ tên trừ những lúc phàn nàn về chuyện nhạc bật quá to hoặc chó sủa váng nhà. Không thế nói rằng xã hội ta ngày nay cũng thế. Và đó không chỉ là giữa những người hàng xóm với nhau, hay thậm chí là người trong một nước. Dù có đi đâu, có nói chuyện với ai, tất cả chúng ta đều có một trải nghiệm chung rất mạnh mẽ. Hai năm trước tôi có đi trên một chuyến tàu khách, chuyến Pan Pacific Line đi qua các hòn đảo. Chúng tôi gặp đủ thứ khách thập phương, và mặc dù các tiểu tiết có thể khác nhau, các câu chuyện hầu như đều na ná nhau cả. Tôi biết thế này là hơi lạc quan quá bởi tôi dám chắc rằng ngay kh mọi thứ trở về “bình thường,” một khi con hay cháu chúng ta được lớn lên trong một thế giới hòa bình, chúng sẽ ngay lập tức trở lại thành những con người ích kỉ, hạn hẹp và đối xử mất dạy với nhau như chúng ta hồi trước. Nhưng liệu những thứ ta đã trải qua thực sự có thể biến mất hết không? Có lần tôi được nghe một câu tục ngữ của người Châu Phi rằng “Qua sông kiểu gì cũng dính ướt.” Tôi rất muốn tin điều đó.
            Đừng hiểu nhầm ý tôi, tôi cũng có nhớ một số thứ trong thế giới trước kia, chủ yếu chỉ là đồ đạc, những thứ tôi từng có hoặc từng nghĩ rằng một ngày kia mình sẽ có. Tuần trước chúng tôi có tổ chức tiệc tân hôn cho một gã trai trẻ cùng khu. Bọn tôi mượn được cái đầu đĩa DVD duy nhất còn hoạt động và mấy bộ phim khiêu dâm thời tiền chiến. Có cái cảnh Lusty Canyon đang bị ba thằng phang trên nóc một chiếc xe mui xếp BMW Z4 xám bạc, và trong đàu tôi chỉ có một suy nghĩ Ái chà, ngày nay đâu còn ai sản xuất xe như thế nữa.
            TAOS, NEW MEXICO, MỸ
            [Chỗ thịt nướng đã gần chín. Arthur Sinclair lật mấy miếng thịt đang sôi xèo xèo lại, hít hà hơi khói.]
            Trong số các công việc đã trải qua, không gì sướng hơn làm cớm tiền tệ. Khi ngài tân thử tướng đề nghị tôi quay lại với vai trò chủ tịch SEC, tôi tí nữa thì hôn bà ấy một phát. Tôi đoán chắc là cũng như khi được lên làm ở DeStRes, tôi được nhận công việc này vì chẳng còn ai muốn làm. Vẫn còn rất nhiều thách thức phía trước, phần lớn đất nước vẫn còn dùng “đơn giá hàng hóa.” Thuyết phục mọi người ngưng trao đổi hàng hóa và tin tưởng vào đồng đô la Mỹ… không dễ một chút nào. Đồng peso của Cuba vẫn là thống soái, và rất nhiều công daan thuộc tầng lớp khá giả của ta vẫn còn có tài khoản ngân hàng ở Havana.
            Chỉ riêng việc giải quyết vấn nạn tiền thặng dư là đủ khiến cho bất cứ bộ máy chính quyền nào phải đau đầu rồi. Sau khi chiến tranh kết thúc người ta tìm thấy cả đống tiền, Trong các két sắt vô chủ, trong các ngôi nhà, trên các xác chết. Sao mà biết được ai là kẻ trộm ai là những người đã thực sự cất kín tiền của mình đi, nhất là khi hồ sơ sở hữu giờ hiếm như xăng dầu? Đó là lí do làm cớm tiền tệ là công việc quan trọng nhất của tôi. Chúng tôi phải xử lí những thằng khốn đang ngăn cản không cho sự tự tin quay trở lại với nền kinh tế Mỹ, không chỉ bọn trộm cắp vặt mà cả những đứa cỡ bự nữa, mấy thằng khốn đang tìm cách mua nhà trước khi những người sống sót có thể đến lấy lại, hoặc đang vận động hành lang để bãi bỏ chế độ điều phối thực phẩm cũng như những thứ hàng hóa sinh tồn quan trọng khác… và cái thằng Breckinridge Scott, vâng, ông hoàng Phalanx, vẫn còn đang trốn chui trốn nhủi như chuột trong cái Pháo đài Khốn kiếp miền Nam Cực của hắn. Hắn vẫn chưa hay biết gì hết nhưng tôi đã có nói chuyện với mấy anh Ivan để họ không gia hạn hợp đồng thuê nhà cho hắn. Ở nhà có rất nhiều người đang mong được gặp hắn, nhất là bên IRS.
            [Ông mỉm cười và xoa tay vào nhau.]
            Lòng tự tin, đó là chất dầu giúp cho bộ máy tư bản chạy được. Nền kinh tế của ta chỉ có thể hoạt động nếu người ta tin vào nó; như FDR đã nói, “Thứ duy nhất chúng ta phải sợ chính là nỗi sợ hãi.” Bố tôi chấp bút cho ông ta đó. Ít nhát là theo lời ông ấy nói.
            Nó dã bắt đầu rồi đấy, chậm thôi nhưng chắc chắn bắt đầu rồi. Cứ mỗi ngày trôi qua chúng ta lại có thêm vài tài khoản được mở ở các ngân hàng Mỹ, thêm một vài doanh nghiệp tư nhân được thành lập, chỉ số Dow lại tăng thêm vài điểm. Nó cũng như thời tiết vậy. Cứ mỗi năm mùa hè lại dài thêm ra, bầu trời lị xanh thêm hơn. Mọi thứ đang tốt đẹp dần lên. Cứ đợi mà xem.
            [Ông thò tay vào trong cái thùng lạnh, lấy ra hai cái chai màu nâu.]
            Nước hoa quả không?
            KYOTO, NHẬT BẢN
            [Đây là một ngày trọng đại đối với Hiệp hội Khiên bảo vệ. Cuối cùng họ cũng đã được công nhận là một chi nhánh độc lập của Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản. Nhiệm vụ chính của họ sẽ là dạy cho dân thường ở Nhật cách tự vệ chống lại bọn thây ma. Sứ mệnh liên tục của họ cũng sẽ bao gồm tiếp thu những kĩ thuật tự vệ có vũ khí cũng như tay không từ những tổ chứ không thuộc Nhật Bản, và giúp phát triển những kĩ thuật đó trên khắp thế giới. Thông điệp phản đối súng ống cũng như ủng hộ quan hệ hợp tác quốc tế của Hiệp hội đã được hưởng ứng nhiệt liệt, thu hút sự chú ý của giới phóng viên cũng như quan chức ở gần như tất cả các quốc gia thuộc Liên Hiệp Quốc. Tomonaga Ijiro đứng đầu hàng, mỉm cười và cúi chào các vị khách. Kondo Tatsumi cũng đang mỉm cười, đứng cuối phòng nhìn về phía người thầy của mình.]
            Anh cũng biết tôi không tin vào ba cái thứ tâm linh vớ vẩn này, đúng không? Theo tôi thấy, Tomonaga chỉ là một lão hibakusha già đầu óc có vấn đề, nhưng thầy đã khởi đầu một thứ rất tốt đẹp mà tôi nghĩ sẽ mang tính sống còn đối với tương lai Nhật Bản. Thế hệ của thầy muốn thống trị thế giới, và thế hệ của tôi sẵn lòng để thế giới, ở đây là đất nước của các anh, thống trị mình. Cả hai con đường đều tí nữa đã khiến quê hương chúng tôi bị diệt vong. Phải có một con đường nào đó khác tốt hơn, một lựa chọn cho phép chúng tôi tự bảo vệ mình, nhưng sẽ không đến mức khiến các nước khác cảm thấy bất an và thù địch. Tôi không thể khẳng định được đây sẽ là con đường đúng đắn; tương lai quá trắc trở, không thể thấy xa được. Nhưng tôi sẽ cùng với thầy Tomonaga bước đi trên con đường này, tôi và rất nhiều người khác nữa. Ngày càng có nhiều người đến nhập hội với chúng tôi. Chỉ có “các vị thần” mới biết điều gì đang chờ đợi chúng tôi ở phía cuối con đường.
            ARMAGH, IRELAND
            [Philip Adler uông nốt li rượu, đứng dậy ra về.]
            Chúng ta không chỉ mất đi nhân mạng khi bỏ mặc họ cho lũ thây ma. Tôi chỉ muốn nói có thế thôi.
            TEL AVIV, ISRAEL
            [Sau khi ăn xong, Jurgen giật lại tờ hóa đơn từ trên tay tôi.]
            Xin để đấy, tôi chọn chỗ ăn, để tôi đãi. Hồi trước tôi gét món này lắm, trông cứ như bãi nôn. Một tối nọ, nhân viên của tôi phải lôi tôi ra đây, một lũ Sabra choai choai với khẩu vị lạ kì. “Ăn thử xem nào, đồ yekke già,” họ nói. Họ gọi tôi là “yekke.” Nó có nghĩa là đồ bảo thủ, còn định nghĩa chính xác của nó là người do thái gốc đức. Cả hai nghĩa đều đúng.
            Tôi có trong chiến dịch “Kindertransport,” cơ hội cuối cùng để tuồn trẻ em Do Thái ra khỏi Đức. Đó là lần cuối tôi được nhìn thấy gia đình mình còn sống. Trong một thị trấn nhỏ ở Ba Lan có một cái ao, nơi ấy chúng vẫn đổ tro xuống. Nửa thế kỉ đã trôi qua mà giờ cái ao ấy vẫn xám đục ngầu.
            Tôi có nghe nói rằng không ai sống qua được vụ tàn sát chủng tộc Do Thái, ngay cả những người hiện vẫn đang sống cũng đã bị thương tật không thể cứu chữa được, nhuệ khí của họ, linh hồn của họ, cái con người hồi trước của họ, tất cả đều đã ra đi vĩnh viễn. Tôi không muốn tin đó là sự thật. Nếu đó mà là đúng thì không ai trên Trái Đất này sống sót qua khỏi cuộc đại chiến thây ma.
            TRÊN BOONG TÀU USS TRACY BOWDEN
            [Michael Choi đứng dựa vào lan can chỗ quạt đuôi của tàu, mắt nhìn về phía đường chân trời.]
            Anh có biêt ai đã thua trong trận Thế Chiến Z này không? Bọn cá voi. Chúng cũng không có nhiều cơ hội lắm, nhất là khi có đến vài triệu người chết đói trôi dạt trên đại dương và phân nửa lực lượng hải quân thế giới được chuyển thành hạm đội đánh bắt cá. Cũng chẳng tốn công gì nhiều, chỉ cần thả bom từ trực thăng xuống, quá xa để gây ra thương tổn về thể xác, nhưng cũng đủ gần để khiến chúng bị điếc và choáng váng. Chúng không để ý thấy tàu đánh bắt cho đến khi đã quá muộn. Ở cách đó vài dặm anh vẫn có thể nghe thấy tiếng đầu đạn nổ, tiếng kêu của chúng. Không dì dẫn truyền âm thanh tốt như nước cả.
            Thật là một tổn thất quá lớn, anh không cần phải là một tên hippe mới nhận ra điều đó. Cha tôi làm việc ở Scripps, không phải cái trường nữ sinh ở Claremont mà là một viện hải dương học ngoại ô San Diego. Đó là lí do tôi gia nhập lực lượng hải quân và tại sao mà tôi yêu biển đến vậy. Không thể nào không thấy bọn cá voi xám California được. Chúng thật là oai phong. Sau khi bị săn bắn đến mức suýt nữa thì tuyệt chủng, chúng đã bắt đầu quay trở lại. Chúng không còn sợ ta nữa và đôi khi anh còn có thể chèo ra đủ gần để chạm vào chúng. Chúng có thể giết chết ta chỉ trong nháy mắt, chỉ cần quẫy nhẹ cái đuôi a ba mét rưỡi kia hoặc huých cái thân hình nặng hơn ba chục tấn của mình là đủ. Thợ săn cá voi thời trước vẫn thường gọi chúng là cá quỉ vì khi bị dồn đến cùng đường chúng chiến đấu rất dữ dội. Nhưng chúng biết ta không muốn làm hại chúng. Chúng thậm chí còn để ta vỗ về hoặc nếu cảm thấy muốn bảo vệ con cái, chúng chỉ nhẹ nhàng đẩy ta ra xa. Sức mạnh quá lớn, tiềm năng hủy diệt quá lớn. Những con cá voi xám California ấy thực sự là những sinh vật kì thú, và giờ đây chúng biến mất hết rồi, cung với cả lũ cá voi xanh, lũ cá kình, lũ cá voi lưng gù và cá voi đầu bò. Tôi có nghe đồn là có người đã nhìn thấy vài con cá voi trắng và kì lân biển sống sót dưới lớp băng Nam Cực, nhưng chắc cũng không đủ để tạo ra một hồ gen tử tế. Tôi biết vẫn còn một số con cá voi sát thủ chưa bị sứt sẹo gì, nhưng cứ nhìn vào tình hình ô nhiễm ngày nay và hiện trạng lượng cá trong các khu sông hồ ở Arizona đang ngày càng ít đi, tôi không quá lạc quan vào triển vọng của chúng. Ngay cả nếu Mẹ Thiên Nhiên có tạm hoãn thi hành án cho lũ cá voi sát thủ, để chúng thích nghi như đã làm với lũ khủng long, các gã khổng lồ dịu dàng cũng đã vẫn biến mất mãi mãi. Nó gióng như trong bộ phim Oh God nơi Đức Chúa Toàn Năng thách con người tự làm ra một con cá thu. “Các người không thể,” ngài nói, và trừ khi mấy anh bên lưu trữ di truyền đến được trước mấy quả ngư lôi, ta cũng sẽ không thể nào tạo ra một con cá voi xám California nữa.
            [Mặt trời lặn xuống phía chân trời. Michael thở dài.]
            Vậy nên lần sau khi có ai nói với anh rằng tổn thất thực sự của cuộc chiến này là “sự vô tôi của chúng ta” hay “một phần nhân tính của ta”…
            [Ông nhổ xuống nước.]
            Gì cũng được. Đi mà nói với lũ cá voi ấy.
            DENVER, COLORADO, MỸ
            [Todd Wainio tiễn tôi ra bến tàu, nâng niu mấy điếu thuốc lá Cuba 100 phần trăm tôi mua tặng anh làm quà chia tay.]
            Ừ, đôi khi tôi cũng mất kiểm soát, lên cơn vài phút, có lẽ khoảng một giờ. Nhưng mà bác sĩ Chandra bảo thế không sao. Ông ta mở phòng tư vấn ở ngay chỗ VA này. Ông ta bảo tôi rằng đấy là chuyện bình thường, giống như mấy trận động đất nhỏ để giảm bới áp lực trên khe nứt. Ông ta nói chính những ai không có mấy cái “xung chấn nhỏ” như thế này mới cần phải dè chừng.
            Chỉ cần một chút kích thích thôi là đủ để tôi hóa dại rồi. Thi thoảng khi tôi ngửi thấy mùi gì đó, hoặc nghe giọng ai quen quen. Tháng trước khi đang ăn tối, đài có bật một cái bài hát, tôi không nghĩ họ đang nói về cuộc chiến của tôi, thậm chí tôi còn không nghĩ đây là đài Mỹ. Cái chất giọng và một số ngôn từ nghe rất khác, nhưng còn đoạn điệp khúc… “Mong Chúa cứu rỗi, tôi mới có mười chín.”
            [Tiếng chuông vang lên thông báo tàu của tôi sắp khởi hành. Xung quanh chúng tôi mọi người bắt đầu lên tàu.]
            Buồn cười ở chỗ những kí ức sống động nhất của tôi lại trở thành biểu tượng chiến thắng của quốc gia.
            [Anh chỉ vào cái bức tranh tường khổng lồ phái sau lưng chúng tôi.]
            Đó chính là bọn tôi, đứng trên bờ sông Jersey ngắm bình minh New York. Chúng tôi vừa nhân được tin, hôm đó là ngày VA. Không có tiếng reo hò, không có tiệc tùng gì hết. Mọi thứ cứ như mơ vậy. Hòa binh ư? Điều ấy có nghĩa là gì? Tôi đã sợ hãi quá lâu, đã chiến đấu và chém giết và đợi cái chết tới gần lâu quá đến mức mình đã coi nó như một phần trong đời sống thường nhật rồi. Tôi cứ ngỡ đây là một giấc mơ, đôi khi tôi vẫn còn cảm thấy thế mỗi khi nhớ lại ngày hôm đó, cái lúc mặt trời bừng lên phía trên thành phố Hero.
Đây là một câu chuyện hư cấu. Tên tuổi, nhân vật, địa điểm cũng như các sự kiện đều do tác giả tưởng tượng ra hoặc được chế tác lại. Nếu có sự trùng hợp nào với những con người dù còn sống hay đã chết, các sự kiện hay các địa danh, tất cả đều hoàn toàn là ngẫu nhiên.
            Copyright © 2006 by Max Brooks
            All rights reserved.
            Truyện được xuất bản ở Mỹ bởi Nhà Xuất Bản Crown, ấn phẩm của Tập đoàn Xuất Bản Crown, đơn vị trực thuộc Random House, Inc., New York. www.crownpublishing.com thương hiệu Crown đã được đăng kí bản quyển bởi Random House, Inc.
            Brooks, Max.
            World War Z : lịch sử truyền miệng của cuộc đại chiến zombie/ Max Brooks.— tái bản lần 1.
1. War—Humor. I. Title.
            PN6231. W28B76 2006
            813'.6—dc22
            2006009517
            eISBN-13: 978-0-307-35193-7
            eISBN-10: 0-307-35193-9
            v1.0
            LỜI CẢM ƠN
            Xin trân trọng cảm ơn vợ tôi, Michelle, vì đã yêu thương và hỗ trợ tôi hết mực. Cảm ơn Ed Victor, vì đã giúp khởi đầu dự án này. Cảm ơn Steve Ross, Luke Dempsey, và toàn bộ đội ngũ của Nhà Xuất Bản Crown. Cảm ơn T. M. vì đã trông chừng cho tôi. Cảm ơn Brad Graham ở tờ Washington Post; Ts. Cohen, Whiteman, và Hayward;
            Cảm ơn giáo sư Greenberger và Tongun; Rabbi Andy; Cha Fraser; STS2SS Bordeaux (USN fmr); “B” và “E”; Jim; Jon; Julie; Jessie; Gregg; Honupo; và bố, vì đã cho con “yếu tố con người.”
            Và cuối cùng, xin được chân thành cảm ơn ba con người đã cho tôi cảm hứng viết cuốn sách này: Studs Terkel, Đại tướng Sir John Hackett quá cố, và tất nhiên, ngài George A. Romero thiên tài và đáng sợ.
Notes
            [←1]
Trích từ “Những câu nói của Chủ tịch Mao Trạch Đông,” gốc là “Tình hình Chính sách của Ta sau Chiến thắng trong cuộc Kháng chiến chống Nhật Bản,” 13 tháng tám, 1945
[←2]
Một loại xe thời tiền chiến sản xuất ở nước Cộng hòa Nhân dân.
[←3]
Viện Bệnh Truyền Nhiễm Và Kí Sinh Trùng trực thuộc Bệnh viên Liên hiệp Đầu tiên, Đại học Dược Trùng Khánh.
[←4]
Guokia Anquan Bu: Bộ An ninh Quốc gia thời tiền chiến.
[←5]
Shetou: “Đầu rắn,” chuyên vận chuyển lậu “renshe,” hay dịch thô ra là “đầu rắn” của dân tị nạn.
[←6]
Liudong renkou: Thành phần “dân số trôi nổi” của Trung Quốc, chỉ những người lao động chân tay vô gia cư
[←7]
Tiên nâu: biệt danh dành cho một loại thuốc phiện trồng ở tỉnh Badakhshan thuộc Afghanistan.
[←8]
PTSD: Post-Traumatic Stress Disorder - Hội chứng Chấn thương Tâm lý.
[←9]
Có ý kiến cho rằng trước chiến tranh, cơ quan sinh dục của những người Xu-đăng bị kết tội ngoại tình sẽ bị cắt và đem bán ở chợ đen.
[←10]
PEM: proton exchange membrane – màng trao đổi proton
[←11]
PRC: People’s Republic of China – Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa
[←12]
PLO: Palestine Liberation Organization – Tổ chức Giải phóng Palestine
[←13]
Hậu duệ của Yassin: Một tổ chức khủng bố thanh thiếu niên lấy theo lên Sheikh Yassin quá cố với luật lệ chiêu mộ rất nghiêm ngặt. Mọi tử sĩ đều không được phép quá mười tám tuổi.
[←14]
“Trong mắt thánh Allah, những kẻ không có đức tin là đều là lũ súc vật đê tiện nhất, vậy nên chúng không thèm tin.” Trích trong kinh Koran, phần tám 8, khổ 55.
[←15]
Đến lúc này, chính phủ Israel đã hoàn thành chiến dịch “Moses II,” đưa người “Falasha” gốc Ethiopia cuối cùng vào Israel
[←16]
Vào thời điểm đó, chưa ai biết liệu chủng virút này có thể sống sót trong các thứ chất thải bên ngoài cơ thể người hay không.
[←17]
Khác với hầu hết xe tăng các nước khác, chiếc “Merkava” của Israel có cửa sau để triển khai quân.
[←18]
CIA, gốc là OSS, mãi đến tháng sáu năm 1942 mới được thành lập, sáu tháng sau khi Nhật tấn công Trân Châu Cảng.
[←19]
Trước chiến tranh, một “trò chơi bắn súng” online có tên là “America’s Army” được chính phủ Mỹ tung lên cho chơi miễn phí, vài người cho rằng đây là để chiêu binh.
[←20]
“Hill” ở đây là gọi tắt của Capitol Hill ở Washington D.C nơi Quốc hội Mỹ tổ chức họp hành và "Penn Ave" ở đây chỉ Pennsylvania Avenue, nơi có Nhà Trắng.
[←21]
Chỉ là lời đồn; mặc dù kẹo M&M đỏ trong giai đoạn 1976 – 1985 đã bị loại bỏ, họ không sử dụng chất nhuộm đỏ số 2.
[←22]
Một hình thức giảm thiểu thuế thu nhập cá nhân ở Mỹ
[←23]
Ở Ấn Độ ngày xưa tồn tại một lớp người được coi là hạ đẳng so với những tầng lớp khác.
[←24]
BMP là một loại xe bọc thép chở quân do Sô-viết sáng chế và sử dụng, và giờ là do quân đội Nga sử dụng.
[←25]
Semnadstat là một tạp chí dành cho các thiếu nữ ở Nga. Tên của nó, 17, đã được sao chép bất hợp pháp từ một tạp chí cùng tên khác ở Mỹ.
[←26]
IRA: Individual Retirement Account – Tài khoản Hưu trí Cá nhân
[←27]
G: tên tiếng lóng chỉ zombie trong thời chiến
[←28]
Zack: Tên lóng chỉ zombie trong chiến tranh.
[←29]
FOL: Family of Latrines - Hố xí Quân sự
[←30]
Mặc dù đây chỉ là nói phóng đại, số liệu thời tiền chiến cho thấy Yonkers có tỉ lệ phóng viên trên quân nhân cao hơn bất cứ trận đánh nào trong lịch sử.
[←31]
G: Tên lóng chỉ zombie trong chiến tranh.
[←32]
Loại đạn chuẩn 40-mm hồi trước chiến tranh chứa 115 đầu đạn phi tiêu.
[←33]
SAW: Một loại súng máy hạng nhẹ, tên đầy đủ là Squad Automatic Weapon.
[←34]
JSF: Joint Strike Fighters.
[←35]
JSOW: Joint Standoff Weapon.
[←36]
Phiên bản kế hoạch Redeker của Đức.
[←37]
BRO: Border Roads Organization – Tổ chức các Tuyến đường Biên giới.
[←38]
Bộ Tài nguyên Chiến lược
[←39]
RKR: Resource-to-Kill Ratio
[←40]
“Gấu” là biệt danh của chỉ huy chương trình NST thời Chiến tranh Vùng Vịnh.
[←41]
Vidkun Abraham Lauritz Jonsson Quisling: Tổng thống Na Uy được Phát xít bổ nhiệm thời Thế Chiến Thứ Hai.
[←42]
Asymptomatic Demise Syndrome
[←43]
Apocalyptic Despair Syndrome
[←44]
Inland Empire ở California là một trong những khu vực cuối cùng được giải phóng
[←45]
Malcolm Van Ryzin: Môt trong những nhà làm phim thành công nhất Hollywood
[←46]
DP: Director of Photography – Đạo diễn Hình ảnh.
[←47]
JSOW được dùng cùng với rất nhiều loại bom đạn không kích khác ở Yonkers.
[←48]
Thông tin hơi bị cường điệu hóa. Lượng chiến đấu cơ bị “bị xếp xó” trong Thế Chiến Z không nhiều bằng lượng bị bắn hạ trong Thế Chiến Thứ Hai.
[←49]
AMARC: Aerospace Maintenance and Regeneration Center – Trung tâm Bảo trì và Phục hồi Hàng không, ngoại ô Tucson, Arizona
[←50]
Meg: Biệt danh các phi công đặt cho khẩu súng lục tự động .22. Có lẽ với vẻ ngoài bao gồm bộ giảm thanh dài, báng gập và ống ngắm, nó trông giống mẫu đồ chơi “Megatron” của dòng Hasbro Transformers. Điều này vẫn chưa được kiểm chứng.
[←51]
Trong giai đoạn này của cuộc chiến, bộ quân phục mới (BDU – Battle Dress Uniform) chưa được đưa vào sản xuất đại trà.
[←52]
“Baby-Ls”: Vốn là thuốc giảm đau nhưng nhiều quân nhân sử dụng nó làm thuốc ngủ..
[←53]
Mặc dù Machu Picchu không gặp nhiều biến động trong cuộc chiến, những người sống sót ở Vilcabamba cũng có phải trải qua một trận bùng phát dịch nhỏ trong hàng ngũ của mình.
[←54]
Zed: Tên lóng chỉ zombie trong chiến tranh.
[←55]
Hàng phòng ngự chính của Anh được thiết lập dọc khu Bức tường Antonine của La Mã cổ.
[←56]
Ubunye: một từ gốc Zulu ý chỉ Sự hợp nhất
[←57]
Mặc dù có nhiều ý kiến trái chiều về việc này, nhiều nghiên cứu khoa học thời tiền chiến đã chứng minh rằng khả năng làm chậm lại quá trình ô-xi hóa của dòng sông Ganges chính là ngọn nguồn “phép màu” của nó.
[←58]
Phiên bản Kế hoạch Redeker của Nam Triều Tiên
[←59]
Đã có một số báo cáo chỉ ra rằng trong đợt chết đói năm 1992 có xảy ra nạn ăn thịt người và rằng một số nạn nhân là trẻ con.
[←60]
Hitoshi Matsumoto và Masatoshi Hamada là hai trong số những diễn viên hài ứng khẩu nổi tiếng nhất Nhật bản thời tiền chiến
[←61]
“Siafu” là tên một loại kiến ăn thịt ở Châu Phi. Thuật ngữ này được sử dụng lần đầu bởi Tiến sĩ Komatsu Yukio khi ông phát biểu trước Nghị viện.
[←62]
Ai cũng công nhận Nhật Bản có tỉ lệ tự tử cao nhất trong giai đoạn Cuộc Đại Loạn.
[←63]
Bosozoku: Các băng đảng xe máy trẻ tuổi ở Nhật, nổi tiếng nhất trong thời những năm 1980 và 1990.
[←64]
Ikupasuy: Tên gọi của một loại gậy Ainu nhỏ dùng để cầu nguyện. Sau này khi được hỏi về sự sai lệch này, sư phụ Tomonaga trả lời rằng người thầy của ông, ông Ota, đã nói cho ông cái tên đó. Liệu rằng có phải ông Ota cố ý gán cho dụng cụ làm vườn của mình một kết nối tâm linh nào đó hay chỉ đơn giản là đã quá xa rời nền văn hóa của mình (cũng như nhiều người Ainu khác cùng thời với ông),chúng ta sẽ không bao giờ biết được.
[←65]
Chi-tai: Vùng.
[←66]
Đến nay vẫn chưa ai xác minh được mức độ phụ thuộc vào thị giác của thây ma.
[←67]
Haya-ji: Thần gió.
[←68]
Oyamatsumi: Thần cai trị các ngọn núi và núi lửa.
[←69]
General Intelligence Directorate
[←70]
Đến nay vẫn chưa ai biết được chính xác số lượng tàu của quân đồng minh cũng như tàu trung lập thả neo ở các cảng của Cuba trong giai đoạn chiến tranh.
[←71]
Tên gốc: International Space Station (ISS).
[←72]
“Tàu cứu sinh” dùng để quay trở về khí quyển của trạm
[←73]
Trạm ISS ngưng chế ôxi bằng phương pháp điện phân để tiết kiệm nước.
[←74]
Các thông số kĩ thuật thời tiền chiến cho thấy công năng tái chế nước của tàu ISS là 95 phần trăm.
[←75]
ATV: Automated Transfer Vehicle – Phương tiện Chuyên chở Tự động.
[←76]
Nhiệm vụ phụ của tàu dùng một lần ATV đó là lấy thiết bị đẩy để giữ cho trạm không bị lệch quĩ đạo.
[←77]
Extra Vehicle Activities (EVA)
[←78]
ASTRO: Autonomous Space Transfer and Robotic Orbiter – Trạm Chuyển giao Vũ trụ Tự động và Tàu Quĩ Đạo
[←79]
PSA: Personal Satellite Assistance – Hỗ trợ Vệ tinh Cá nhân
[←80]
Cho đến nay, không ai biết tại sao gia đình hoàng gia Saudi lại ra lệnh đốt hết các bãi dầu của vương quốc mình.
[←81]
Hồ chứa nước của Đập Katse ở Lesotho được xác nhận là đã gây ra vô số xáo trộn địa chấn kể từ khi nó được hoàn thành vào năm 1995.
[←82]
Trạm ISS có điện đài dân sự để cho phép phi hành đoàn trò truyện với học sinh.
[←83]
ODV: Orbital Denial Vehicle – Chuyên cơ Ngăn chặn Vũ trụ
[←84]
Mkunga Lalem: (Con lươn và thanh kiếm), môn võ chống zombie hàng đầu thế giới.
[←85]
CIC: Combat Information Center – Trung tâm Thông tin Chiến đấu
[←86]
Đã có xác nhận rằng ít nhất hai mươi lăm triệu trong số đó bao gồm dân tị nạn đến từ Mỹ Latinh bị giết trong khi đang tìm cách đi lên phía Bắc Canada.
[←87]
Đã có một số ý kiến cho rằng có một vài nhân vật trong quân đội Mỹ công khai ủng hộ việc sử dụng vũ khí nhiệt hạch hạt nhân trong chiến tranh Việt Nam.
[←88]
Móc xích: từ lóng để chỉ các loại xe cộ di chuyển trên bánh xích trong chiến tranh.
[←89]
M-trip-Bảy ASV: Cadillac Gauge M1117 Armored Security Vehicle - Xe bọc thép Cadillac Gauge M1117.
[←90]
Thành phần cấu thành bộ quân phục mới của quân đội (BDU – Battle Dress Uniform) vẫn được giữ bí mật.
[←91]
SIR: Standard Infantry Rifle – Súng Bộ binh Tiêu chuẩn
[←92]
Khẩu súng có tên viết tắt giống với từ “ngài” (sir) trong tiếng Anh.
[←93]
PIE: Pyrotechnically Initiated Explosive.
[←94]
BS: Battlefield Sanitization – Dọn dẹp Chiến trường.
[←95]
PEM: Primary Enticement Mechanism – Cơ Chế Nhử Chính.
[←96]
Một thứ khí cụ đa năng làm bằng thép, được đặt theo tên ngọn giáo ngắn truyền thống của Zulu.
[←97]
Từ long để chỉ những con zombie sống lại sau khi Cuộc Đại Loạn kết thúc.
[←98]
RT: Recharge Team - Đội Tiếp Đạn.
[←99]
Thiết bị Hỗ Trợ Quan Sát trong Chiến đấu M43.
[←100]
Reinforced Square.
[←101]
I-Rations: Intelligent Rations – Thực phẩm Thông minh, được thiết kế để đạt hiệu quả dinh dưỡng tối đa
[←102]
KO: Knock Out – Hạ Gục.
[←103]
Concertainer: Một loại rào chắn rỗng đúc sẵn, chế ra từ Kevlar và được nhét đầy dất cùng với/hoặc là gạch đá.
[←104]
PT: Physical Training – Rèn luyện Thể chất.
[←105]
AIT: Advanced Individual Training – Huấn luyện Cá nhân Cấp cao.
[←106]
Sweep and Clear.
[←107]
Long Range Patrol.
[←108]
Data Orientation Asset (DOA).
[←109]
AGN: Army Group North – Nhóm Quân phía Bắc
[←110]
Cơ sở nghiên cứu vũ khí ở China Lake.
[←111]
Thuốc L (Lethal – gây chết): thuật ngữ chỉ những viên thuốc độc, một trong những lựa chọn dành cho những chiến binh Mỹ bị nhiễm bệnh trong Thế Chiến Z.
[←112]
DSCC: Deep Submergence Combat Corps.
[←113]
ADS: Atmospheric Diving Suit.
[←114]
John Lethbridge, vào khoảng năm 1715
[←115]
Zero Visibility Detection Kit.
[←116]
ROV: Remotely Operated Vehicles – Phương tiện Điều khiển Từ xa
[←117]
“Đại tướng Cá Tầm”: biệt danh dân thường gán cho chỉ huy đương nhiệm của DSCC
[←118]
Bộ phim có tên viết tắt là A No A, gọi lóng là Alpha November Alpha (Alpha Tháng Mười Một Alpha)
[←119]
Alan Hale Cha.
[←120]
Tỉ lệ thương vong cao nhất trong số các lực lượng đồng minh đến nay vẫn được tranh cãi.
[←121]
Force Appropriate Response.
[←122]
Lion’s Roar, sản xuất bởi hãng phim Foreman cho đài BBC.
[←123]
Bản không lời của bài “How Soon Is Now,” sáng tác bởi Morrissey và Johnny Marr, thể hiện bởi anh em nhà Smiths.
[←124]
HR: Humans Reclaimation – Thu hồi Nhân mạng
[←125]
Phát âm giống như từ “bay” trong tiếng Anh (flies), chủ yếu bởi vì đòn vồ mồi của chúng tông rất giống đang bay.
[←126]
F-Lions: Feral Lions - sư tử hoang
[←127]
Tính đến hiện tại, không có số liệu khoa học nào có thể minh chứng cho những ứng dụng của học thuyết Bergmann trong giai đoạn chiến tranh.
[←128]
LaMOE: Last Man on Earth – Người Sống sót Cuối cùng. Đọc là Lay-moh với chữ e câm
[←129]
Số liệu về diễn biến thời tiết trong chiến tranh vẫn chưa chính thức được xác nhận.
[←130]
Thiếu tá Ted Chandrasekhar.


Mục Lục

Nhãn: , , , , , ,

0 Nhận xét:

Đăng nhận xét

<< Trang chủ