Thứ Tư, 21 tháng 5, 2014

Thế giới kỳ bí của Ngài Benedict Tập 2 Chương 6

Tên Ebook: Giải Cứu Ngài Benedict

Tác Giả: Trenton LeeStewart
Dịch giả: Diệu Hằng
Nhà xuất bản: Dân Trí
Đơn vị phát hành: AlphaBooks
Kích thước: 14x17cm
Hình thức bìa: Bìa mềm
Ngày xuất bản: 05/12/2012
Giá bìa: 119.000VND
Chụp + tách pic: Boom Boom Boom
Beta: Ha Huyen, Dorothy Phạm, Vũ Vũ, Phạm Huỳnh Uyên Khôi
Nguồn: daotieuvu.blogspot.com
Thế giới kỳ bí của Ngài Benedict 2 - Trenton Lee Stewart

Thế giới kỳ bí của Ngài Benedict Tập 2 - Trenton Lee Stewart

Chương 6: Một nửa sự thật và trò lừa gạt

“Tôi đi ngay khi nhận được bức điện tín của Rhonda,” Moocho Brazos đang nói. “Tôi đã hy vọng đuổi kịp và cảnh báo cho mọi người, nhưng các vị đã đi trước quá xa rồi. Tôi e là tôi hơi kích động khi tới đây.”
“Hoàn toàn có thể hiểu được mà,” cô Perumal nói, chuyển sang cho anh một đĩa thịt nguội với pho mai. “Cậu thật tốt bụng khi cố gắng cảnh báo cho chúng tôi.”
Mọi người tụ họp trong phòng ăn ngoại trừ Rhonda - cô phải quay lại với cuộc thẩm vấn bị cắt ngang bởi sự xuất hiện của Moocho - và vụ náo động mới đây đã được dàn xếp xong. Moocho và các viên sĩ quan cảnh sát đã xin lỗi nhau (với vẻ rất khó chịu của ông Bane, người không hề được xoa dịu), và Kate đã huýt sáo gọi Madge từ hiên nhà xuống - vì con chim mà Sticky đã trông thấy quả thật là chú chim ưng thông minh của Kate.
(“Ôi con chim này!” Kate đã reo lên. “Cô nàng hẳn đã thấy tớ trèo vào trong chiếc xe thùng đó và đi theo cả quãng đường! Ôi, mày chắc là kiệt sức rồi, đồ ngốc ạ, thật là bướng bỉnh!” cô nựng nịu vuốt ve bộ lông của con chim. Kate rõ ràng được thể hãnh diện khi phát hiện ra con chim ưng của mình quá gắn bó như thế. Tuy nhiên, cô vẫn vâng lời để Madge ở ngoài trời, đối với một con chim săn mồi cũng khó tin tưởng nếu ở dưới cùng một mái nhà với con chim bồ câu đưa thư quý giá kia.)
“Chú Milligan đã biết gì về chuyện này chưa?” Moocho hỏi, lịch sự lấy chỉ vừa đủ thịt nguội pho mai để cho một người có kích thước bình thường ăn.
“Rhonda vẫn chưa thể nào liên hệ với ông ấy được,” bà Washington nói.
Ông Washington đang nhìn chăm chăm ra ngoài cửa sổ lần đầu tiên cất lời kể từ lúc họ đến đây. “Rốt cuộc Milligan đang làm cái gì thế? Tôi nghĩ ông ấy đã lần theo dấu vết mọi người mà ngài Benedict muốn giúp đỡ.”
“Mọi người ngoại trừ các Điều hành viên biến mất cùng với ngài Curtain,” Kate nói với cái miệng đầy thịt gà tây và pho mai. Cô bé nuốt xuống rồi tiếp tục, “gần đây bố cháu vẫn tiếp tục các điệp vụ khác nữa. Ông… ừm… cháu thực ra không được biết về chúng,” cô bé lo lắng nói.
“Đừng nói bất cứ điều gì không nên, cháu yêu,” bà Washington nói.
“Nếu các nhiệm vụ đó có liên quan gì tới ngài Curtain,” Reynie nói (cậu đang hy vọng ngăn được những câu hỏi về chiếc phong bì ngài Benedict gửi chúng), “thì việc biết về chúng có lẽ cũng quan trọng với chúng ta đấy.”
“Đúng thế,” ông Washington đồng ý, đi đến ngồi xuống cạnh bàn. “Chuyện này liên quan tới tất cả chúng ta. Cháu có biết bất cứ chuyện gì có thể tiết lộ không, Kate? Dĩ nhiên, cháu nên giữ im lặng với điều gì không nên.”
Kate ném một cái nhìn dè chừng về phía cánh cửa phòng ăn. Mẹ cô Perumal nhìn thấy vậy liền đứng lên từ chỗ ngồi của bà. “Tôi sẽ đứng gác,” bà nói. “Mọi người có thể kể cho tôi sau. Dù sao tôi cũng chẳng nghe được gì khi mọi người đều thì thà thì thầm như thế, đây tất nhiên là thời điểm phải thì thầm rồi.” Bà lão đi ra. Những người khác nhìn Kate vẻ ngóng chờ.
“Bố cháu vẫn đang điều tra về các hoạt động của bọn tay sai ghê rợn của ngài Curtain,” Kate nói. “Những Gã Số Mười. Chúng đang có âm mưu gì đó trong mấy tháng vừa qua - đột nhập vào văn phòng, đánh cắp các thứ đồ từ những nhà máy - nhưng không ai có thể phán đoán ra đó là gì.”
“Những Gã Số Mười ư?” cô Perumal hỏi. “Thật là một cái tên gây tò mò.”
“Chúng được gọi như thế bởi vì chúng có mười cách khác nhau để làm người ta đau đớn,” Sticky nói vẻ hiểu biết.
Bố mẹ Sticky quay ra nhìn cậu chằm chằm. “Bố thấy là con đã nghe nói về chúng rồi,” ông Washington nói
“Mặc dù vậy chúng cháu không biết bất cứ chi tiết nào cả,” Reynie nói nhanh khi Sticky ngoảnh đi.
“Những Gã Số Mười trông khá giống các doanh nhân bình thường,” Kate nói, “điều đó có thể khiến chúng khó bị phát hiện. Nhưng mọi thứ chúng mang đều là vũ khí. Mọi người đã biết về những cái đồng hồ gây sốc rồi đúng không? Thế thì, chúng còn sử dụng cả cà vạt như là những sợi roi nữa. Những chiếc khăn tay bỏ túi của chúng tẩm đẫm thứ gì đó - nếu chúng bịt vào mũi mọi người sẽ bị hạ gục ngay - và va li của chúng cũng đầy chật những thứ quỷ quái: những chiếc bút chì sắc như dao cạo, kẹo cao su tẩm độc, thậm chí một chiếc bút laser cũng phóng ra tia laser thật - ý cháu không chỉ là một tia sáng đỏ đầu mà là một chùm tia có thể cắt rời tai của người ta ra!”
Đến đây, mọi người ngồi quanh bàn đều có vẻ không thoải mái trước đĩa thịt nguội pho mát của mình. Sticky đưa hai tay lên sờ tai. “Chúng thật sự cắt rời tai ra hả?”
“À, tớ không biết liệu chúng có thật sự làm thế không,” Kate thú nhận, “nhưng chúng có thể nếu muốn.”
“Chúng ta đã có được hình dung rồi,” bà Washington nói, đẩy đĩa đồ ăn ra xa. “Đây là những gã đàn ông xấu xa.”
“Những gã hiểm ác,” Kate chỉnh lại. “Cháu có thể nói với mọi người là bố Milligan đã vài lần lâm vào tình huống khủng khiếp. Nếu ông không phải là Milligan, thì lúc nào cháu cũng sẽ luôn phải lo lắng.”
Bên cạnh cô bé, Sticky đang lau cặp kính cận của mình, cảm thấy càng lo âu hơn về viễn cảnh chạm mặt một Gã Số Mười. Người lớn cũng buồn phiền. Xung quanh chiếc bàn họ đang lắc đầu, chặc lưỡi và thật sự trông rất ủ rũ. Chỉ có Reynie không cảm thấy ngạc nhiên bởi báo cáo của Kate, vì đã quen với cảm giác này - dù cuộc tranh luận với ngài Benedict đã chống lại nó - rằng sự độc ác là điều gì đó được mong đợi.
“Đó là tất cả những gì cháu biết,” Kate nói vẻ tiếc nuối. “Nó không thật sự giúp ích được chút nào trong hoàn cảnh của chúng ta.”
Reynie nhận thấy cô Perumal đang nhìn đăm chiêu và cậu tự chuẩn bị tinh thần. Cậu đã đoán biết điều gì sắp xảy đến. Quả là thế, cô quay sang cậu và nói: “Cô đang cho rằng chiếc phong bì Rhonda đưa cho các con không làm sáng tỏ được điều gì cả. Nếu không thì các con đã kể với chúng ta ngay rồi.”
“Nó chẳng cho chúng con một gợi ý tối thiểu nào về nơi họ có thể đã đến cả,” Reynie đáp, điều đó là sự thật theo nghĩa nào đấy. “Có lẽ chú Milligan sẽ có vài lời giải đáp. Chắc chắn chú ấy sẽ sớm có mặt ở đây.”
“Nhân tiện đây, chúng ta có thể xem bức thư đó không?” ông Washington hỏi.
“Dĩ nhiên ạ,” Reynie đáp ngay, trước khi lũ bạn của nó kịp để lộ ra bất cứ sự hốt hoảng nào. “Chúng cháu để nó ở trên phòng Constance. Bây giờ cháu đi lấy nhé?” Cậu làm bộ chuẩn bị đứng dậy.
“Ăn nốt bữa trưa của con trước đã,” cô Perumal nói đây là điều Reynie hy vọng cô sẽ nói. “Con có thể đi lên đó sau.”
Reynie ngồi lại vào chỗ của mình. Cậu quá bồn chồn thấp thỏm đến nỗi chẳng có tâm trạng nào mà ăn, nhưng cậu cũng cố gắng ăn thứ gì đó. Nếu cậu và bạn bè sắp sửa lẻn trốn ra ngoài thì chúng phải làm chuyện đó ngay sau bữa trưa này. Sau đó, ai biết được bữa ăn kế tiếp sẽ kiếm ở đâu ra?
***
Cuối cùng Rhonda Kazembe cũng nhập hội lại với bọn họ ở phòng ăn, đóng cánh cửa lại phía sau. Với một cái lắc đầu cảnh giác, cô thông báo rằng Argent rất muốn phỏng vấn lũ trẻ nhưng đã bị hoãn lại sau. “Tôi đã khăng khăng đòi cô ta cho các em thời gian để hồi phục sau cú sốc và dù thế nào đi nữa cũng không kỳ vọng các em biết bất cứ điều gì. Giờ hãy nói chị nghe,” cô nghiêm nghị nói, “Có cái gì trong phong bì vậy? Các em có biết thêm bất cứ điều gì không?”
Reynie nhanh nhảu lặp lại một nửa sự thật mà cậu vẫn nói, đó là lá thư không cho chúng được ý tưởng nào về nơi những người bạn của chúng đã đến. Rhonda, người chẳng có lý do gì mà không tin tưởng cậu - quả thực cô đã đặt rất nhiều kỳ vọng vào những ý kiến của cậu - tỏ vẻ thất vọng cay đắng. Trong trường hợp đó, cô đã nói rồi, cô sẽ đợi để xem lá thư sau khi đã giải quyết các vấn đề khác. Reynie gật đầu, cảm thấy vừa có chút tội lỗi, vừa nhẹ nhõm cả người.
Rhonda đi đến ngồi cạnh Constance (cô nhóc này oằn èo khó chịu như thể đang gặp nguy hiểm vì bộc lộ cảm xúc) và đặt một cái hộp nhỏ được bọc một cách vụng về lên bàn. “Chị không thể đưa cho em cái này sớm hơn,” cô nói. “Nó ở trong phòng làm việc của ngài Benedict, các thanh tra kia không để cho chị mang bất kỳ thứ gì ra ngoài cho tới khi họ đã quét qua nó bằng một cái lược khít. Chị rất tiếc phải nói là họ đã kiểm tra cái này, cho dù nó là một món quà cá nhân của ngài Benedict dành cho em. Chị đã bắt họ phải bọc lại nó.”
“Xấu kinh khủng,” Kate nhận xét. “Họ bọc ngược giấy mặt trong ra ngoài rồi!”
“Chị biết,” Rhonda nói, giọng điệu u sầu, “Ngài Benedict sẽ thấy chuyện đó thật khôi hài, em không nghĩ thế à? Không nghi ngờ gì cả, ông sẽ tự cười một mình trong giấc ngủ đấy.”
“Cái gì thế ạ?” Constance hỏi.
“Một món quà sinh nhật sớm,” Rhonda nói.
Mọi người lập tức hiểu ra. Sau điệp vụ của lũ trẻ năm ngoái, ngài Benedict đã làm một chiếc bánh cho sinh nhật của Constance mặc dù còn sớm cả tháng trời. Ông biết quá rõ là tất cả bọn họ sẽ sớm phải chia tay. Đó là một bữa tiệc bất ngờ mà chính tại đó mấy đứa trẻ kia mới biết Constance chỉ mới có hai tuổi. Mãi cho tới lúc đó chúng vẫn nghĩ cô nhóc này là một đứa nhỏ bướng bỉnh, vụng về với lối cư xử kém cỏi.
“Vậy đó là một dạng hoạt động kỷ niệm,” Sticky nói, “để nhắc chúng ta nhớ đến năm ngoái.”
Thứ đầu tiên Constance lôi ra từ chiếc hộp là một tấm bưu thiếp ghi: Chúc sinh nhật vui vẻ, cháu yêu! Hãy luôn nhớ rằng thế giới này là con sò biển của cháu. Thân mến, ngài Benedict.
Constance gần như sắp khóc, nhưng cô bé lại hắng giọng và giúi tấm thiếp một cách thô bạo qua chỗ Reynie. Cô bé cần tới vài lần cố gắng mới lấy được món quà ra - nó nhỏ bé và thật tinh tế, Constance thì không kiên nhẫn cũng chẳng khéo léo gì - nhưng cuối cùng cô nhóc cũng lấy được một cái mặt dây đáng yêu trên một sợi dây chuyền mảnh mai bằng vàng. Mặt dây này là một quả địa cầu thu nhỏ, được vẽ bằng màu xanh lá cây sẫm và màu xanh dương, với một viên pha lê bé tí sáng lấp lánh đặt vào trong.
“Ôi, nó mới đẹp làm sao, cháu yêu!” bà Washington trầm trồ.
“Nó cũng ổn,” Constance phán, nhưng bây giờ cô nhóc thật sự đang khóc ròng và không có tâm trạng nào để bị người khác nhìn thấy cả. “Cháu sẽ đi về phòng bây giờ.” Nắm chặt mặt dây chuyền trong những ngón tay mũm mĩm, cô bé vội vã rời khỏi phòng.
“Chúng mình nên đi cùng em ấy,” Reynie nói.
Người lớn lầm bầm chấp thuận trong khi Sticky và Kate gật đầu và nhỏm dậy khỏi bàn. Trước khi rời khỏi phòng, Reynie còn dừng lại ở khung cửa để liếc nhìn cô Perumal lần cuối, tình cờ cô cũng đang nhìn lại cậu. Vầng trán cô nhăn lại lo lắng - cô đang lo lắng cho cậu, tất nhiên rồi - và Reynie cố hết sức mình để đáp lại cô một cái nhìn trấn an trước khi đóng cánh cửa lại, tự hỏi đến khi nào cậu mới có thể lại trông thấy cô.
Cậu có thể cũng đang trấn an chính bản thân mình.
***
Constance Contraire ngồi giữa mấy đống vải lanh trên giường, đeo mặt dây chuyền mới và nét mặt ủ rũ. Khi cả lũ đi vào, cô nhóc quàu quạu lầu bầu gì đó rồi quay mặt đi. Thậm chí cả Reynie, một người có tài phán đoán tâm trạng mọi người hết sức tuyệt vời, cũng không thể nói được chính xác Constance buồn rầu đến mức nào, vì vẻ cáu kỉnh của Constance đã là chuyện cơm bữa.
Đó cũng không hoàn toàn là lỗi của cô bé. Mặc dù lớn tuổi hơn, khôn ngoan hơn và hơi to lớn hơn cô bé một năm trước đây, nhưng Constance hoàn toàn biết rõ rằng tính ngoan cố - tính quả quyết tuyệt đối không có đối thủ của nhóc không liên quan tới những điều nhóc được chỉ bảo - đóng một vai trò quan trọng trong sự thành công của nhiệm vụ trước đây. Dĩ nhiên, cô nhóc cũng biết rằng những người bạn của mình cũng có những vai trò quan trọng và rằng sự ngang bướng cố chấp của mình không phải là một đặc điểm đáng yêu - thực tế, đôi khi nó còn đối lập ngược lại với những mong muốn của chính cô nhóc. Nhưng Constance đã nhận được rất nhiều sự quan tâm tích cực dành cho thái độ ngang ngạnh của mình, và sau cùng cô nhóc cũng chỉ mới có ba tuổi thôi mà. Cô nhóc có thể là một thiên tài bắt đầu nảy mầm, nhưng những cảm xúc của nhóc vẫn phức tạp và vô chính phủ như bất kỳ đứa trẻ nào ở tuổi đó. Vậy nên trong khi một mặt Constance muốn tỏ ra vui vẻ, phóng khoáng và giúp đỡ, thì mặt khác cô nhóc lại có xu hướng thích cãi cọ và gắt gỏng, quả thật đây là kiểu thái độ tự nhiên nhất đối với cô bé.
Bạn bè của cô bé đã quá quen với chuyện này rồi. Ở một mức độ nào đó, cả bọn đều phải đối mặt với cùng khó khăn ấy - sự mâu thuẫn giữa trái tim và trí óc nảy sinh từ việc nhận được món quà trời ban vượt xa cả tuổi tác của chúng - và trong những thời khắc nhạy cảm như thế này, chúng cảm thấy rõ ràng điều đó có ý nghĩa gì khi là những đứa trẻ trong một thế giới của người trưởng thành. Không nói một lời, ba đứa trèo lên giường ngồi cùng với Constance. Có lẽ cô nhóc không thuộc tuýp người nói ra miệng, nhưng Constance yêu ngài Benedict hơn bất cứ ai trên thế giới này, và tất cả bọn chúng đều biết thế.
Chúng ngồi đó một lúc trong im lặng. Tuy nhiên không quá lâu cho tới lúc Constance bật ra một tiếng than rồi trèo xuống khỏi giường. Cô nhóc không bao giờ chịu là mục tiêu cho sự thương hại của người khác trừ phi có chủ ý tạo ra hiệu ứng đó, mà lần này thì không phải. Hơn thế nữa, tính cáu kỉnh của cô nhóc lấn át cả việc tự thương hại bản thân, nó đến như một sự giải thoát nhẹ nhõm. Vậy nên trong một tâm trạng có phần kiên quyết, cô bé giở cuốn nhật ký mà ngài Benedict đã để lại (cô bé đã giấu nó dưới một đống quần áo) chăm chăm nhìn nó vẻ suy xét, như thể đang hy vọng nó sẽ hé lộ ra bí mật.
“Không hiểu sao hình như em đã biết cái đường tắt đó là gì rồi,” Constance nói. “Em có một linh cảm về nó, giống như nó có vẻ quen thuộc. Nhưng em không thể xác định được.”
“Anh cũng có cảm giác như thế,” Reynie nói.
“Này, mình cũng vậy!” Kate reo lên. “Thế còn cậu thì sao, Sticky?”
Sticky nhún vai. “Mình luôn luôn có những cảm giác day dứt như thế. Rắc rối là phải biết được cái nào cần tập trung chú ý vào.”
“Thế thì có một thứ chắc chắn,” Kate nói. “Nếu ngài Benedict đã đề cập một đường tắt nào đó trước đây, thì bọn con trai các cậu sẽ nhớ cuộc nói chuyện đó. Tớ nghĩ thậm chí tớ cũng sẽ nhớ ra nó. Vậy tại sao chuyện đề cập về một con đường tắt này lại dường như quá quen thuộc với tất cả chúng mình?”
“Chúng mình chắc hẳn đều đã nghe nói về nó ở đâu đó,” Reynie nói, “hoặc là... các cậu có cho rằng nó có thể ở trong tờ báo đó không?”
“Này, cái đó có lý đấy!” Kate nói. “Ngài Benedict biết tất cả chúng mình đều đọc báo hàng ngày.”
Reynie xoa xoa cằm. “Vậy câu hỏi là cái gì…”
Nhưng Sticky đã kịp lục lọi trí nhớ của mình và sốt sắng cắt ngang cậu bạn. “Nó là cái tàu chở hàng đó - đường tắt MV! Nhớ không? Nó có trên tất cả các báo ngày hôm qua.”
“Nhắc lại cho bọn em nhớ đi,” Constance giục.
“Đây, tớ sẽ trích dẫn một trong các bài báo đã đọc,” Sticky nói, và bằng một giọng khá tự đại cậu chàng cất tiếng đọc: “Ngày mai chiếc tàu chở hàng tốc độ nhanh nhất trong lịch sử sẽ thực hiện chuyến hải trình đầu tiên của nó, xuất phát từ Bến cảng Thành phố Đá vào lúc bốn giờ...”
“Bốn giờ!” Kate la lên. “Chúng mình phải xuống đó ngay!”
“Chúng mình vẫn còn vài tiếng nữa mà,” Sticky nói, cậu ta cảm thấy tổn thương khi bị cắt ngang quá nhanh, không nói gì đến việc cậu lo lắng tới mức nào trước ý nghĩ phải ra đi.
“Dù sao chỉ mất một lúc là tới được cầu cảng,” Reynie lên tiếng. “Và đầu tiên chúng mình phải lẻn được ra khỏi nhà đã.”
“Phần đó thì dễ như bỡn mà,” Kate nói, lôi ra cuộn dây thừng của cô. “Có một cái máng được giấu dưới sảnh trống không phía sau mê cung.”
“Làm sao mà cậu biết?” Sticky hỏi. “Ý tớ là nếu nó đã được giấu kín…”
“Tớ tìm thấy nó trong chuyến viếng thăm cuối cùng của chúng mình. Khi các cậu còn đang nhìn những giá sách, thì tớ khám phá. Cái máng giặt đó không bị bít kín hay làm bất cứ gì, đúng không Constance?”
“Làm sao mà em biết chứ? Em thậm chí còn không biết có nó kìa,” Constance đáp. Cô nhóc ra dấu về phía hàng đống đồ giặt là xung quanh chúng. “Thông thường thứ này chỉ được dựng lên cho tới khi Số Hai đẩy nó vào một cái sọt. Cô ấy nói cô ấy ghét làm hư em, nhưng cô ấy không thể chịu đựng được đống lộn xộn đó. Em gọi nó là tình thế khó khăn trong công việc giặt là của cô ấy.”
“Điều đó chắc hẳn làm cô ấy bực mình lắm đấy,” Sticky nói.
“Ồ, đúng thế!” Constance đáp, rồi tủm tỉm cười hớn hở trước hồi ức đó.
Kate quay trở lại vấn đề. “Ý em nói em sống trong ngôi nhà này và thậm chí không...?” Cô bạn lắc lắc đầu. “Em làm chị phải kinh ngạc đấy, Constance. Dù sao thì chị có thể đưa em xuống dưới cái phòng đó bằng dây thừng của chị, rồi sau đó chị sẽ theo xuống sau em.”
“Cảnh sát đã đi rồi,” Reynie nói, ngó ra ngoài cửa sổ nhìn sân dưới, “nhưng ông Bane vẫn gác cổng. Tớ đánh cuộc là ông ta đã có lệnh không cho bất cứ ai đến hay đi mà không được sự đồng ý.”
“Bây giờ đó là vấn đề đấy,” Kate nói. “Nếu ông ấy cố ngăn chúng mình thì sẽ chú ý đến những gì chúng mình đang làm.”
“Tớ nghĩ ra vài thứ,” Reynie nói. “Trong lúc đó, cậu có thể lẻn xuống dưới và lấy mấy cái áo sơ mi khác cho Sticky và tớ được không? Cái áo này đang làm tớ phát ban đây.”
Kate lẩn tránh việc này. “Tớ nghi ngờ có chiếc sơ mi nào trong nhà này lại vừa với cậu. Cậu không nghĩ nên…?”
“Bố tớ mang theo trong mấy cái va li ấy,” Sticky nói. Cậu nhìn cô bạn với ánh mắt ngờ vực. “Cậu không trông thấy chúng ở cạnh cầu thang à? Chúng mình đi qua ngay cạnh còn gì?”
“Ồ, phải, những cái va li,” Kate lẩm bẩm thở dài thườn thượt trên đường đi ra. Cô khá là thích thú được thấy các chàng trai trông ngớ ngẩn như vậy và ghét họ thay áo.
Đến lúc Kate quay trở lại với mấy chiếc sơ mi, Reynie đã dọn sạch cái bàn học của Constance và đang vội vã viết một lời nhắn để giải thích mọi chuyện và xin lỗi vì làm người lớn phải lo lắng, bọn chúng sẽ cực kỳ cẩn thận, sẽ liên lạc với Rhonda và Milligan ngay khi chúng tìm được bất cứ điều gì hữu ích. Cả bọn cùng ký tên phía dưới (chữ ký của Constance nguệch ngoạc kinh khủng) và sau đó đăm đăm u ám nhìn nhau, vì việc ký vào lá thư để lại sẽ khiến người thân cảm thấy nghiêm trọng về những gì chúng sắp cố gắng làm. Sau rồi từng đứa một gật đầu một cách kiên quyết và hướng ra khỏi phòng.
***
Khi Kate đi xuống máng giặt, cô thấy Constance và Reynie bó gối ngồi giữa cái máy giặt và cánh cửa, còn Sticky, vì thiếu chỗ, đang ngồi trên cái máy sấy quần áo. Khu vực giặt giũ, bị nhét vào khoảng không bên dưới gầm cầu thang ở phía sau mê cung, trông giống một cái tủ xép hơn là một căn phòng.
“Cậu làm gì mà lâu thế?” Sticky thì thào hỏi.
“Rhonda đến tìm bọn mình,” Kate đáp. “Tớ nghe chị ấy gõ cửa phòng Constance, nên tớ vội vã quay lại trước khi chị ấy đi vào trong và tìm thấy lá thư của chúng mình. Tớ bảo chị ấy là bọn mình sẽ xuống trong một phút nữa. Về cơ bản thì điều đó là sự thật mà. Vì tớ không nói chúng mình sẽ xuống đâu mà.”
“Chúng mình cần ra khỏi đây thật nhanh,” Sticky nói.
“Hạ thấp giọng cậu xuống không thì chúng mình sẽ chẳng đến được đâu cả đâu,” Kate đe, lách người qua các bạn để ngó ra cửa. “Cả cậu nữa, Reynie. Đừng có thở hồng hộc thế đi - tiếng cậu nghe như tiếng cá voi phun nước ấy. Được rồi, đường quang rồi.”
Bọn trẻ mau chóng tìm đường đi qua mê cung. Lối đi đó giờ đã là bản năng thứ hai của chúng, chẳng mấy chốc đã đến cửa trước, ở đó mấy đứa cùng nhìn Reynie. Cậu hít vào một hơi thật sâu làm mình bình tĩnh rồi đẩy một cái công tắc được giấu kín mở khóa cửa.
Ông Bane đang ngồi trên một chiếc ghế băng dưới tán cây du, vẫn đang chăm chú dõi mắt đến cánh cổng. Gương mặt ông ta đanh lại khi thấy lũ trẻ. Trước khi ông ta kịp tra hỏi chúng, Reynie đã thốt lên, “Ông Bane, ông cần phải hộ tống chúng cháu tới chỗ xe ô tô của nhà Washington. Chúng cháu được bảo mang vào mấy cái va li.” Cậu chỉ xuống con đường xuôi theo dãy nhà. “Nó ở ngay góc quanh kia.”
Ông Bane lừ lừ nhìn cậu. “Có một điều, nhóc ạ, ta không thích bị ai ra lệnh đâu, đặc biệt không phải bởi mấy đứa chíp hôi cục cưng của Rhonda Kazembe. Với lại, ta đang làm nhiệm vụ. Hay mày không muốn lối ra vào được canh gác hả?”
“Chỉ mất có vài phút thôi mà!” Reynie nói, hiển nhiên bị chọc tức. Cậu bước xuống các bậc thềm cùng với mấy đứa bạn ở ngay phía sau.
Ông Bane đứng lên nhìn xuống bọn trẻ. “Có vẻ như mấy đứa không hiểu ‘nhiệm vụ’ có nghĩa là gì. Ta đang canh chừng cánh cổng này!”
Mấy đứa bạn nhìn Reynie chằm chằm. Đây là kế hoạch của cậu à? Xúc phạm ông Bane à? Không phải chúng đang cố gắng tránh một cuộc đối đầu trực diện sao?
“Vậy à…” Reynie ngập ngừng như thể đang cân nhắc điều gì đó. “Dù thế ông sẽ để chúng cháu quay vào trong chứ ạ? Chúng cháu được phép ở đây, ông biết mà.”
Vẻ mặt ông Bane thay đổi. Sự thay đổi này không dễ phát hiện, nhưng nó chính xác là cái Reynie đã hy vọng trông thấy - một sự chuyển đổi từ coi thường sang láu cá. Di chuyển để mở cánh cổng, ông Bane nói: “Ta cho rằng mấy đứa nhóc chúng mày nghĩ chúng mày có thể làm bất cứ điều gì chúng mày muốn. Mày không nghĩ đến việc phải nói làm ơn nữa.” Với một cái cúi đầu chế nhạo, ông ta bước sang một bên, lũ trẻ vội vàng đi ra. Ông Bane đóng cánh cổng lại phía sau chúng với một nụ cười khó chịu.
“Chúng cháu sẽ cần ông giúp để mang va li lên gác,” Reynie gọi với lại trong khi cả bọn đi xa dần, xuôi xuống theo vỉa hè đi bộ. “Chúng rất nặng.”
“Ta sẽ ở đây,” ông Bane đáp lại, rồi lẩm bẩm điều gì đó mà lũ trẻ không nghe rõ.
“Ôi, thật thông minh, Reynie,” Kate hạ thấp giọng khen. “Tớ không hề biết cậu định làm gì cơ đấy.”
Cô quỳ gối và giơ tay ra cho bé Constance, cô nhóc liền vừa trèo lên lưng Kate (đó là thói quen dành cho Constance: được cõng trên lưng khi cả bọn đang vội) vừa nói, “Anh chị có thấy vẻ mặt ông ta không? Ông ta rõ ràng không thể đợi tới lúc bắt chúng ta phải đứng nài nỉ để xin được trở vào trong đấy.”
“Và rồi nhìn chúng ta vật lộn leo lên các bậc cầu thang với mấy cái va li,” Sticky thêm vào. “Làm tốt lắm, Reynie ạ.”
Reynie không nói gì. Cậu thấy nhẹ nhõm vì mánh khóe đó đã hiệu quả, nhưng không thật thỏa mãn khi lợi dụng tính khó chịu của ông Bane. Rốt cuộc, người đàn ông đó vốn đứng ở phe của họ. Thái độ cư xử của ông ta không cải thiện được quan điểm của Reynie về con người.
“Mình hy vọng Madge sẽ ổn cả,” Kate nói, xốc Constance lên tư thế thoải mái hơn trên lưng cô. “Mình không nhìn thấy cô nàng trên mái hiên. Mình nghĩ nó đang đi săn chim bồ câu.”
“Chúng mình cần ra khỏi tầm nhìn,” Sticky nói, cậu thấp thỏm sợ bị bắt lại và cảm thấy bản thân khá giống một con chim bồ câu bị săn đuổi. “Ai có đủ tiền để đi taxi không?”
Không đứa nào có cả. Thậm chí dốc tất cả tiền của chúng gom lại cũng chỉ đủ vài đô la và mấy đồng lẻ. Tuy nhiên, thế cũng đủ để chúng bắt xe buýt và thế là cả bọn khởi hành tức tốc tới trạm xe buýt gần nhất. Nửa đường Constance kêu lên chán nản. Cô nhóc quên mất cuốn nhật ký ông Benedict tặng cho chúng.
“Tuyệt,” Sticky lẩm bẩm. “Đây thật là một khởi đầu hứa hẹn đấy.”
“Hứa hẹn có nghĩa là gì?” Constance hỏi. Cô nhóc trông đã sẵn sàng tức giận rồi.
“Đừng để ý,” Kate nói. “Có thể là chuyện tốt khi em để lại nó đấy. Em biết mà, đỡ đi một thứ phải mang.”
“Nhưng em muốn chúng mình viết vào đó như ngài Benedict nói cơ.” Constance rên rỉ. “Chị biết đấy, trong khi chúng ta du hành.”
“Chúng mình sẽ viết về mọi chuyện khi quay trở về,” Reynie nói. “Được không, mọi người? Chúng mình cùng hứa sẽ viết điều gì đó về... à, về bất cứ chuyện gì sắp diễn ra.”
Sticky và Kate hứa sẽ làm. Constance không thoải mái lắm, nhưng bây giờ chẳng thể quay lại được. Lũ trẻ vội vã đến trạm dừng xe buýt và lên chiếc xe đến bến đầu tiên, dù lộ trình của nó không đi ngang qua gần cảng như chúng hy vọng. Chúng không thể mạo hiểm đợi một chiếc xe khác.
Chúng đi trên xe im lặng một lúc, ngắm nhìn những con đường và những tòa nhà thân quen lướt về phía sau khi chiếc xe buýt đi vào một khu vực khác của Thành phố Đá. Kate có lẽ là người duy nhất không có nửa phần mong ước cả bọn không phải đi xa, nhưng ngay cả cô bé cũng bị khuất phục. Lũ trẻ giờ cô độc và không xu dính túi trong một thành phố rộng lớn. Nếu mọi chuyện diễn ra như ý, chúng sẽ sớm nhận thấy bản thân - vẫn đơn độc và không xu dính túi - giữa một thế giới thậm chí còn xa xôi rộng lớn hơn.
Mục Lục

Nhãn: , , , , ,

0 Nhận xét:

Đăng nhận xét

<< Trang chủ