Thế giới kỳ bí của Ngài Benedict Tập 2 Chương 2
Tên Ebook: Giải Cứu Ngài Benedict
Bộ Sách: Thế giới kỳ bí của Ngài Benedict (tập 2)
Tác Giả: Trenton LeeStewart
Thể Loại: Kỳ ảo, Huyền bí, Văn học phương Tây
Dịch giả: Diệu Hằng
Nhà xuất bản: Dân Trí
Đơn vị phát hành: AlphaBooks
Kích thước: 14x17cm
Hình thức bìa: Bìa mềm
Ngày xuất bản: 05/12/2012
Giá bìa: 119.000VND
Chụp + tách pic: Boom Boom Boom
Beta: Ha Huyen, Dorothy Phạm, Vũ Vũ, Phạm Huỳnh Uyên Khôi
Nguồn: daotieuvu.blogspot.comThế giới kỳ bí của Ngài Benedict Tập 2 - Trenton Lee Stewart |
Chương 2: Lời cảnh báo vô hình
Kate và Reynie dành phần còn lại của buổi sáng làm các công việc lặt vặt. Cũng hay hay, đặc biệt khi hai đứa vừa làm vừa tán chuyện. Trong khi hái táo từ mấy cái cây sai trĩu quả, Kate kể cho Reynie về năm học vừa qua (các lớp học cũng dễ chịu nhưng kê nhiều bàn học quá). Trong khi hai đứa đổ đầy nước vào các máng ăn của gia súc, cô bé miêu tả tình trạng tuyệt vọng khủng khiếp của cái nông trang cũ kỹ này khi cô và Milligan mới trở về. Rồi trong khi tra dầu vào cánh cửa bãi thả gia súc, cô bạn dông dài kể đến việc bố Milligan thỉnh thoảng trở về nhà vào nửa đêm sau một nhiệm vụ bí mật, đánh thức cô dậy nói chuyện hàng giờ đồng hồ ra sao.
“Chuyện đó mình thấy cũng hay,” Kate vừa nói vừa kiểm tra cái bản lề cửa để chắc chắn nó đã hoàn toàn trơn tru và không còn bị kêu rin rít. Cô ném sang Reynie một cái nhìn ranh mãnh. “Bố kể cho tớ tất cả các bí mật hàng đầu đấy nhé.”
Reynie nhướn lông mày. “Như thế nào?”
“Tốt hơn tớ nên đợi để kể cho cả cậu và Stick nghe cùng một lúc,” Kate nói. “Tớ chắc là cậu ấy cũng sẽ muốn nghe đấy.” Cô bé tỏ vẻ trầm ngâm một lúc, rồi miễn cưỡng nói thêm, “mà tớ cũng nghĩ là chúng mình nên đợi cả Constance tới nữa.”
“Thế thì ít nhất hãy kể cho tớ nghe về cái thứ kia đi,” Reynie vừa nói vừa chỉ về phía hai con gà trống mà cậu trông thấy ở góc quanh của kho thóc. Hai anh gà đang châu đầu vào một cái xe goòng nhỏ xíu đựng đầy những hạt lúa mỳ, rồi với những bước chân nhỏ bé liêu xiêu cùng một loạt những tiếng cùng cục lẫn tiếng đập cánh phành phạch, hai chàng kéo cái xe goòng đi về phía chuồng gà.
“Gà vận chuyển,” Kate gật đầu mãn ý. “Một trong những dự án về vật nuôi của tớ đấy.” Cô bé liếc nhìn Reynie để dò xem cậu bạn có hiểu ý câu nói đùa của mình không, nhưng cậu dường như còn quá bận để ý đến màn trình diễn của cái giống lông vũ kia nên chẳng nhận ra.
“Gà kéo xe goòng,” Reynie thốt lên (cậu lịch sự giả vờ như không nghe thấy câu đùa của Kate). “Cậu làm thế nào mà được như thế?”
“Ồ, huấn luyện gà con dễ mà,” Kate nói. “Phần khó nhất là huấn luyện Madge để nó không săn lũ gà - tớ đã mất hai con gà với Madge trước khi thuần dưỡng được nó đấy.” Cô bé ngừng lại một lát để tưởng niệm mấy chú gà không may mắn kia, rồi tiếp tục hào hứng nói. “Tớ đã kể với cậu là tớ học được rất nhiều thứ từ người huấn luyện thú, nhớ không? Tớ đang huấn luyện các con vật trong trang trại làm việc vặt. Bố Milligan thường đi vắng, nên nhà tớ cần nhiều sự giúp đỡ với công việc nông trang. Có thể dùng ngay những gì chúng tớ có thật tốt phải không?”
“Xuất sắc quá đi ấy chứ,” Reynie nói với vẻ chân thành tột độ. “Lũ gà tự cho chúng ăn, và lũ gia súc thì tự mở đóng cửa chuồng.”
“Cậu nhìn thấy rồi à?” Kate hỏi, vẻ mặt vui sướng. “Đúng, chúng nó đến và đi mỗi khi Moocho rung chuông trong trang trại.” Cô chỉ về phía vườn cây ăn trái. “Nói đến Moocho, bây giờ anh ấy đang ở đây. Này, Moocho! Đây là Reynie!”
Kate đã từng nhắc đến Moocho Brazos trong những lá thư, nên Reynie biết mọi điều về anh ta. Ví như cậu biết Milligan muốn có ai đó giúp đỡ việc đồng áng, đồng thời chăm sóc Kate khi ông đi xa làm nhiệm vụ, và rồi Kate đã thuyết phục bố thuê một trong những người bạn cũ của cô bé ở gánh xiếc. Nhưng lúc này, khi dáng vẻ ngăm đen của Moocho Brazos hiện ra từ chỗ những cây táo, Reynie mới nhận ra Kate đã lờ lớ lơ đi không đề cập một vài chi tiết khác. Bây giờ thì cô bạn rõ ràng không cần phải nói gì thêm vì nhìn trực diện thấy rõ những cơ bắp săn chắc, to lớn của Moocho, mái tóc xõa xuống bóng mượt, bộ ria mép cong cong cho biết anh ta chính là Lực Sĩ của gánh xiếc.
Moocho đang bê cái chậu nặng trình trịch đựng đầy những trái táo mà Reynie và Kate hái lúc ban sáng. Hai đứa để nó lại ở tít bên rìa vườn cây để Moocho mang về bằng xe tải của trang trại, Reynie đã nghĩ vậy vì tin chắc không ai có thể bê nó mà đi nổi vài bước. Nhưng Moocho đã đi bộ và trên đôi tay anh là chậu táo trông nhẹ nhàng chẳng khác gì một cái bát tô đựng mấy trái sơ-ri.
“Vậy em chính là Reynie Muldoon tuyệt vời đó hả,” anh ấy cất tiếng khi đi đến nơi. “Anh đã được nghe kể rất nhiều về em.” Dù có vẻ bề ngoài khí thế đến bức người, nhưng giọng nói êm ái, trầm bổng của Moocho lại khiến người ta bất ngờ ngoài sức tưởng tượng ngang với cách phục trang của anh ta - một cái tạp dề hoa mặc bên ngoài bộ áo liền quần lao động và đôi dép đi trong nhà. Anh đặt cái chậu xuống và cầm lấy tay Reynie siết nhẹ. “Rất vui được gặp em.”
“Ngủ nướng đúng không anh Moocho?” Kate hỏi.
Moocho ngáp dài lập tức cứ như bắt được ám hiệu. “Bọn mình đã thức khuya để đợi còn gì.”
“Chỉ có Madge và em mới thức khuya. Anh thì leo lên giường ngáy ầm ầm từ lúc chín giờ rồi.”
“Em biết tỏng rồi còn gì nữa, thời gian ngủ của anh rất dài mà,” Moocho nói, “vậy nên đừng có quạu cọ, cô nương. Trừ phi, em không quan tâm đến miếng bánh táo nào của anh tối nay.”
Kate lập tức thấy hối tiếc vì lời trêu chọc của mình, sau đó kể cho anh về chiếc xe hỏng. Moocho đề nghị đi đón cô Perumal và mẹ của cô bằng xe tải của trang trại, nhưng Reynie bảo họ sẽ đến đây sớm thôi. Người thợ sửa xe đã hứa rằng chiếc xe sẽ được sửa xong trước buổi trưa.
“Vậy đến lúc đó nếu họ chưa tới đây, anh sẽ đi đón,” Moocho nói, bê cái chậu táo lên đi vào nhà. “Chúng ta không thể để họ phải ăn trong thị trấn - quán ăn đó kinh khủng lắm.”
Reynie nhìn anh đi khỏi mà vẫn còn lấy làm kinh ngạc làm sao anh bê được cái chậu ấy dễ như chơi thế. “Tớ đã hiểu lý do cậu xin bố Milligan thuê anh ấy rồi. Anh ấy chắc phải làm việc bằng tới mấy người ý.”
“Ồ dĩ nhiên, tớ cũng nghĩ thế,” Kate nói, miệng cười ngoác đến tận mang tai. “Nhưng hãy đợi cho tới khi cậu thử món bánh của anh ấy nhé. Rồi cậu sẽ biết lý do đích thực.”
***
Đến trưa thì thấy Reynie và Kate vắt vẻo trên nóc mái nhà. Hai đứa lên đấy để thay một tấm lợp mái bị vỡ và chỉnh một cánh quạt gió, sau rốt thì nấn ná luôn ở đấy để ngắm nghía bao quát cảnh vùng quê. Từ trên cao tầm nhìn thật tuyệt vời, Kate chỉ về phía cái ao sủi bọt xa xa, kỷ niệm mới nhất của cô là bơi cùng bố Milligan ở đó. Bỗng một âm thanh từ đâu vọng lại thu hút sự chú ý của cả hai. Chúng quay ra trông thấy một đám bụi mù mịt bốc lên trên con đường nhỏ ở tít xa.
“Chắc là Amma và Pati đấy,” Reynie nói, nhưng Kate đang săm soi đám bụi mù mịt đó bằng cái ống nhòm nhỏ thì khẽ thở hổn hển xúc động rồi la lên: “Tất cả bọn họ ở đây rồi, Reynie ơi! Ý tớ là cả Sticky cũng ở đây rồi!”
Reynie cầm lấy cái ống nhòm - Kate dúi nó cho cậu với sự sốt sắng khiến cậu sợ là cô bạn sẽ hất cậu ngã nhào khỏi mái nhà mất - và chứng thực là dưới con đường bụi mù kia cô Peramal và mẹ cô đang ở trong cái xe thùng chở hàng, theo sau là một chiếc ô tô kín mui: những người nhà Washington đã đến sớm hơn mong đợi.
Kate bò xuống mép mái, tóm lấy hai cạnh chiếc thang và trượt thẳng xuống như thể đó là cái cột trong các trạm cứu hỏa, bỏ qua tất cả các bậc thang. Đến khi Reynie xuống được đến nơi theo đúng cách trèo thang truyền thống thì sân trang trại đã đầy ô tô, người nhà Perumal và người nhà Washington đang tán chuyện sôi nổi với Moocho Brazos (anh chàng đã khẩn trương đi ra chào đón họ), còn Kate đang giúp Sticky từ dưới đất đứng dậy và phủi bụi cho cậu bạn.
Trước sự kinh ngạc của Reynie, Sticky trông y hệt như một năm trước: cậu vẫn gầy tong teo với làn da nâu nâu, đôi mắt lo lắng (dù có thể vẻ lo lắng đó chỉ là do chưa kịp lấy lại hơi thở), và cái đầu trọc lóc luôn. Cái khoản hói cả đầu này mới là phần đáng ngạc nhiên. Lần cuối cùng Reynie thấy Sticky thì tóc của cậu bạn đã mọc lại, giờ thì nó biến đâu mất tăm. Cả cặp kính dày cộp của cậu bé cũng đang mất tích, nhưng chuyện này chỉ là vì Kate đang nhặt nó lên từ chỗ cái ôm nồng nhiệt của cô bé làm chúng văng ra thôi.
Vừa ôm siết hai bên mạng sườn của mình, Sticky vừa mếu máo cười với Reynie. Rồi hai cậu bé phá lên cười vang và ôm chầm lấy nhau, vỗ vỗ vào lưng nhau. Xung quanh họ, mấy người lớn đang trò chuyện râm ran về bộ chế hòa khí bị lỗi, về việc có một khoảng thời gian tuyệt vời trên đường cao tốc và tình cờ gặp nhau bất ngờ trong thị trấn. Ông Washington đang lấy cái xe lăn từ trong xe tải ra cho bà Washington, hai đầu gối của bà có vấn đề khiến bà không đi lại nhiều được, tuy thế bà vẫn cố tiến vài bước khó khăn đến ôm Reynie và Kate. Một người phụ nữ thấp lùn với làn da màu quả óc chó, bờ vai hẹp và cái miệng có vẻ hay hờn dỗi trái ngược hẳn với sự hiền từ tốt bụng trong đôi mắt bà. Bà Washington không thể nào ngưng lắc lắc đầu trong khi đôi tay bà xoay xoay mặt bọn trẻ hết sang trái lại sang phải.
“Hai đứa đều trông có vẻ già dặn hơn nhiều rồi đấy,” bà rầu rầu nói, như thể không chịụ nổi ý nghĩ ấy. Ông Washington tiến đến cùng với chiếc xe lăn, vợ ông liền hạ người ngồi vào rồi chấm chấm đôi mắt long lanh. Ông Washington là phiên bản to lớn hơn của Sticky - cao, mảnh khảnh và đeo kính - không nhiều lời, ông cười trìu mến và chào lũ trẻ với những cái vỗ vai dè dặt.
Trong khi đó, cô Perumal (hai cánh tay bắt chéo sẵn sàng bảo vệ hai bên mạng sườn) đi đến ôm Kate. “Cháu xinh tuyệt, cháu yêu! Ôi! Cô thấy cháu đã lắp một cái nắp vào chiếc giỏ rồi! Thật thông minh!”
Kate cười rạng rỡ - cô bé luôn phổng mũi mỗi khi có ai khen cái giỏ của mình - và chỉ vì muốn được chuồn đi nói chuyện riêng với hai cậu bạn mới ngăn được cô bé mở cái giỏ ra chỉ cho cô Perumal toàn bộ các thứ đựng bên trong. Cả bọn sẽ phải đợi thật lâu nữa mới ở riêng được với nhau, đầu tiên hành lý phải được mang vào nhà, bữa trưa phải ăn, bát đĩa phải được rửa sạch sẽ, khách khứa phải được an vị ở phòng riêng - tất cả những chuyện đó hoàn toàn ổn thỏa vui vẻ nhưng chắc phải mất thời gian lâu lắm mới hoàn thành xong được. Đến giữa buổi trưa thì ba người bạn trẻ đã liên tục liếc mắt với nhau vẻ khao khát, nên khi cô Perumal yêu cầu mấy đứa tránh đi để người lớn có thể nói chuyện riêng, chúng liền vọt thẳng ra cửa.
Nhưng, khi cả bọn đi ra vườn cây ăn trái, Sticky nghi ngại quay nhìn về phía ngôi nhà. “Tớ thắc mắc tại sao họ lại muốn nói chuyện riêng nhỉ?”
“Đấy là điều bất ngờ của ông Benedict,” Reynie nói. “Họ cũng tham gia vào đó.”
“Họ ư? Vậy điều đó giải thích lý do vì sao bố mẹ tớ cứ thì thầm suốt. Tớ còn tưởng họ đang bàn bạc về việc mẹ tớ kiếm được công việc thứ hai chứ. Họ biết tớ sẽ sống chết phản đối nó. Các cậu biết đấy, tớ sẽ lập tức quay lại tham gia cuộc thi vấn đáp, nhưng họ lại sống chết phản đối chuyện đó.”
Từ những lá thư của Sticky, Reynie biết rằng bố của cậu ấy đang phải làm hai công việc một lúc. Tài chính của gia đình họ đang căng kinh khủng vì những sự kiện bất hạnh dẫn đến chuyện năm ngoái. Trí nhớ phi thường và khả năng đọc của Sticky khiến cặu bé trở thành quán quân cuộc thi vấn đáp không có địch thủ, nhưng cậu lại phải chịu một áp lực tồi tệ để kiếm tiền cho gia đình và sau cùng đã chạy trốn khỏi nhà. Gia đình Washington đã chi đến từng đồng xu cuối cùng - thực tế là đã lún sâu vào nợ nần - để tìm Sticky và mang cậu trở về với họ. Từ đó họ không tin vào sự cám dỗ của tiền bạc nữa và ương gàn không để Sticky phải chịu những áp lực khác thường. (“Họ thậm chí không thể ở yên để nghe mình kể về thời gian cả bọn ở Học viện,” Sticky đã viết thế. “Chỉ nghĩ đến việc mình gặp nguy hiểm đã khiến họ run rẩy rồi.”) Vì thế mà gia đình Washington vẫn khá nghèo.
“Làm sao cậu phát hiện việc họ biết về điều ngạc nhiên kia?” Sticky hỏi khi cả bọn an vị dưới bóng râm của những cây táo.
“Amma nhận được một lá thư của ông Benedict,” Reynie nói. “Tớ nhìn thấy nó trên bàn phấn của cô ấy, nhưng cô ấy lại lờ đi không đề cập nó với tớ, rồi sau đấy tớ nghe lỏm được một mẩu đối thoại của cô ấy với Pati. Pati bị nặng tai, nên Amma phải nói to. Không có gì trong đó cho tớ đủ manh mối cả, nhưng tớ có thể nói họ biết điều gì đó mà tớ không biết. Không lâu sau đấy tớ nhận được thư ông Benedict gửi cho - bức thư ông gửi cho tất cả chúng mình - và tớ biết bọn mình được chuẩn bị cho thứ gì đó hay ho.”
“Dĩ nhiên nó sẽ hay ho rồi! Làm sao lại không như thế cơ chứ?” Kate nói, ngả người ra sau chống trên hai khuỷu tay với một nụ cười thỏa mãn. “Nó đã tuyệt vời rồi. Chúng mình với nhau, không phải sao? Và ngày mai bọn mình sẽ gặp ông Benedict!”
“Không kể đến Rhonda và cô Số Hai,” Reynie thêm, ám chỉ tới hai trợ lý xuất sắc của ông Benedict (đồng thời cũng là hai cô con gái nuôi của ông, mặc dù điều này không mấy người được biết). “Tớ không thể đợi tới lúc gặp cả họ nữa.”
“Tớ cũng thế!” Sticky nói bằng một tông giọng có phần được nén lại, “Và, à… cả Constance nữa, dĩ nhiên là thế. Còn chú Milligan thế nào hả Kate? Lúc ăn trưa cậu nói chú ấy sẽ gặp bọn mình ở nhà ông Benedict, nhưng chú ấy không ở đây à?”
“Đó là kế hoạch, nhưng rồi bố tớ nhận được triệu tập phải đi thực thi một nhiệm vụ.”
“Nhiệm vụ gì?” cả Reynie và Sticky cùng hỏi một lúc. Cả hai đứa đều đang đói thông tin.
Kate nhún vai. “Không biết. Bố chẳng bao giờ kể với mình bất cứ điều gì trước khi thực hiện nhiệm vụ cả, chỉ sau đó thôi. Mình thường xuyên đọc báo để tìm manh mối, dĩ nhiên - mình thích có thể nói với bố là mình đã tìm ra được ông làm gì - nhưng mình chẳng bao giờ tìm thấy điều gì cả.”
“Vậy nên cậu vẫn tiếp tục,” Sticky nói. “Mình đã hỏi về chuyện ấy trong lá thư cuối cùng đấy, nhưng cậu chẳng hồi âm gì cả.” Giọng cậu bé có hơi bực bội, nhưng Kate hoặc là phớt lờ nó hoặc là vô tình chẳng để ý.
“Tất nhiên tớ vẫn tiếp tục chứ! Nhưng tớ không giống cậu, Sticky. Tớ không thể đọc mười tờ báo mỗi sáng được, và một nửa trong số chúng lại là ngoại ngữ nữa chứ. Tớ chỉ đọc tờ Thời báo Thành phố Đá thôi. Tại sao ấy à? Cậu có thấy bất cứ điều gì khả nghi không?”
Sticky cằn nhằn. “Tớ ước gì có. Thế còn cậu thì sao, Reynie?”
Mặc dù cuộc trò chuyện này có vẻ thật kỳ lạ nếu có người nghe trộm được (vì hiếm khi nghe thấy trẻ con bàn luận về báo chí, mà hơn nữa lại nghe một đứa hỏi liệu có thấy gì “khả nghi” không), nhưng đối với Reynie và những người bạn của cậu thì chuyện đó là hoàn toàn bình thường. Cả bọn đã có thói quen lâu nay là đọc báo - thực tế chính một quảng cáo trên báo đã dẫn chúng tới với ông Benedict - và kể từ sau nhiệm vụ đó chúng vẫn rà soát các tiêu đề báo hàng ngày với một sự hứng thú đặc biệt. Chúng không tin có bất cứ hành động nào liên quan đến ngài Curtain sẽ được tiết lộ và in ra nhưng khả năng một vài chuyện vô tình có thể tiết lộ ra mối liên hệ với điều gì đó thâm sâu hơn, đen tối hơn - điều gì đó bọn trẻ sẽ nhận ra cho dù những độc giả khác không để ý thấy. Chỉ riêng khía cạnh này là chúng vẫn cảm thấy giống như nhưng đặc vụ bí mật, dù việc đọc báo hàng ngày khó có thể coi là một công việc hứng thú.
Ví như sáng nay trên trang nhất tờ Thời báo Thành phố Đá chẳng có vấn đề gì tai hại tồi tệ hơn ngoài chuyện tài chính, vận chuyển hàng hóa và lâm nghiệp: TỶ LỆ LỢI TỨC TĂNG NHANH CHÓNG, một tiêu đề khác là: HẠ THỦY TÀU CHỞ HÀNG ĐỂ THỰC HIỆN CHUYẾN ĐI BIỂN ĐẦU TIÊN, một cái khác nữa là: BỌ CÁNH CỨNG ĂN HẠI Ở CÁC CÁNH RỪNG MIỀN NAM. Và các tin tức chỉ càng trở nên kém hấp dẫn hơn ở trang thứ hai.
“Khả nghi ư?” Reynie hỏi. “Không, trừ phi cậu nghĩ bọ cánh cứng là khả nghi. Mọi thứ tớ đọc đều chán hơn con gián.”
Hai mắt Kate sáng long lanh. “Này, cái đó làm cho tớ nhớ ra đấy! Sticky, tớ…”
Reynie húng hắng ho và đưa mắt cảnh báo cô bạn. Nhưng đã quá muộn. Sticky có thể chậm chạp trong việc nhận biết các mối liên quan, nhưng lại nhanh nhạy khác thường trong việc nhận ra những lời xúc phạm mang tính cá nhân. “Tiếp đi,” cậu bé nói, vùi mặt vào hai bàn tay. “Là về bản báo cáo điệp vụ của tớ đúng không?”
Giờ thì Kate trông có vẻ thật hối hận. “Ôi… không… tớ chỉ, à, sắp…” Cô bé nhìn về phía Reynie cầu cứu vô vọng, không thể nghĩ ra được phải nói gì.
Thật nhẹ nhõm làm sao, Sticky đã hạ tay xuống và mỉm cười. Đó là một nụ cười bẽn lẽn, nhưng ít nhất trông cậu bé không có vẻ bị tổn thương. “Cứ nói thẳng đi.”
“À, nó… đúng sự thực,” Kate nói.
“Và sâu sắc,” Reynie bổ sung, vội vàng lôi bản báo cáo từ trong túi áo ra với hy vọng tìm thấy thứ gì đó để tán dương thêm.
Kate sôi nổi gật đầu trong khi Reynie giở các trang giấy ra. “Ồ, đúng thế, nó rất sâu sắc! Và chuẩn ngữ pháp!”
Sticky nhăn mặt. “Nó tệ thế cơ à? Ồ, tớ đã biết sẽ thế mà. Các cậu đáng lẽ phải thấy mấy bản nháp trước cơ. Bản này là cố gắng lần thứ sáu của tớ đấy.” Cậu cầm lấy bản báo cáo từ tay Reynie và nhìn lướt qua nó vẻ buồn bã trước khi nhét nó vào túi áo. “Đừng bận tâm, tớ nghĩ có lẽ không bao giờ xuất bản nó đâu. Tớ chỉ muốn làm gì đó để kỷ niệm dịp này thôi mà.”
Reynie bất chợt nhìn thấu được vấn đề. “Đó là lý do tóc cậu biến mất sạch, đúng không? Ôi trời đất ơi!”
“Tớ nghĩ có lẽ cậu khoái chí với ý tưởng đó,” Sticky thú nhận. “Lần này là bố giúp tớ cạo đi - không cần phải dùng tới thuốc nữa.” Cậu bé rùng mình nhớ lại hồi ức đó.
“À, tớ thích nó đấy!” Kate nói, xoa xoa da đầu trọc lông lốc của Sticky, còn Reynie thì cười toe toét và gật đầu tán thành.
Ba đứa nấn ná ở vườn ăn trái rất lâu, say sưa nói chuyện với nhau và hồi tưởng lại điệp vụ ở Học viện. Cười đùa, rên rỉ, thỉnh thoảng lại rùng mình khi nhớ lại những gì chúng đã trải qua - tất cả vẫn còn đọng lại rực rỡ hoàn hảo trong hồi ức của chúng - mấy đứa để buổi chiều chậm chạp trôi qua. Khi Kate nhận ra bóng tối đã buông xuống trên sân trang trại, cô bé mới giật mình bật dậy.
“Ôi chao! Mọi người sắp gọi chúng mình vào nhà rồi mà Sticky còn chưa gặp Madge nữa!”
“Madge là ai?” Sticky hỏi.
“Nữ Hoàng Bệ Hạ!” Kate nói, như thể lời này giải thích hết mọi điều vậy. Cô bé nôn nóng kéo hai cậu bạn đứng lên và thúc đi ra sân trang trại, ở đó cô bé lại thổi cây còi và đút tay vào găng bảo vệ. Gần như ngay lập tức chú chim ưng xuất hiện, liệng cánh lao xuống từ một độ cao không nhìn thấy rõ rồi đậu lên cổ tay Kate.
Vẻ mặt hoang mang bối rối của Sticky nhạt dần thay vào đó là vẻ lo lắng. Mặc dù cậu sẵn lòng bộc lộ sự ngưỡng mộ với sinh vật móng sắc ngay lúc này đang chiếu tướng cậu bằng đôi mắt đen sáng quắc (“Chim ưng”, cậu thốt lên, gật gật đầu khi quay lưng đi, “giống chim ấn tượng... thần tốc nhất trong những loài săn mồi...”), cậu bé cũng không thích thú làm quen với nàng chim này. Với dáng vẻ thất thần hết mức, Sticky lấy một miếng vải từ túi áo ra và tháo cặp kính mắt.
Reynie cười thầm một mình. Cậu chẳng lạ gì thói quen lau chùi cặp kính của Sticky mỗi khi lo lắng bồn chồn, và nhìn cậu bạn làm thế ngay lúc này thật là một cảm giác thỏa mãn ngoài mong đợi. Reynie cảm thấy vui sướng tột độ khi biết rõ về một người bạn khá thích việc chia sẻ một mật mã bí mật như thế. Đồng thời cũng thật mừng khi không phải là đứa duy nhất thấy sợ con chim ưng của Kate.
“Đừng lo, Madge,” Kate nói trong khi cho con chim ưng ăn một miếng thịt sống, “tao sẽ quay về trước khi mày kịp nhận ra.” Rồi cô bé lại thả Madge lên cao, tặc lưỡi nói, “con vật tội nghiệp, các cậu có thấy nó lo lắng đến thế nào không? Cô bé biết tớ sắp đi xa. Tớ nghĩ điều đó làm cho nó bất an.”
“Ồ, đúng thế,” Sticky phụ họa vào kèm theo một cái liếc mắt đầy ẩn ý với Reynie. “Con vật tội nghiệp.”
Reynie vỗ vỗ lên lưng Kate. “Tớ chắc nàng chim ăn thịt của cậu sẽ tốt thôi.”
***
Moocho Brazos đã chuẩn bị xong một bữa ăn thịnh soạn, và bữa tối hết sức náo nhiệt, thỏa thuê, vui vẻ, với tiếng mọi người trò chuyện râm ran và các đĩa đồ ăn không ngừng được chuyển qua chuyển lại. Moocho đã làm sẵn rất nhiều bánh táo để tráng miệng, trong khi thực tế chỉ có sáu người ăn, và sự ngon miệng của mọi người được Moocho mang ra thử nghiệm.
Sau khi đống bát đĩa đã được dọn rửa, tiếng ồn ào vui vẻ lắng xuống và chuyện trò ngơi dần. Mọi người đã quá mức buồn ngủ. Đó là một ngày dài với tất cả, và một ngày đầy ắp các sự kiện khác đang đợi chờ họ phía trước. Bất chấp điều đó, lũ trẻ quyết tâm thức khuya, nhưng dù mới chỉ một năm trước chúng còn đang thực hiện một điệp vụ bí mật đưa ra các quyết định sinh tử thì bây giờ chúng cũng phải vâng theo mệnh lệnh của những người giám hộ - có nghĩa là đi tắm, chào tạm biệt chúc nhau ngủ ngon và đi ngủ.
“Ồ được,” Kate ngáp dài nói. “Chúng mình sẽ sớm tỉnh dậy thôi mà. Lũ gà trống gáy lúc mặt trời mọc, các cậu biết đấy.”
Và quả thế thật, tiếng gà gáy đánh thức Reynie tỉnh dậy vào sáng sớm hôm sau. Cậu lờ đờ ngồi dậy trên một cái nệm rơm trải dưới sàn nhà - trông thấy bầu trời bình minh xam xám xa tít bên ngoài cửa sổ và cô Perumal đang ngồi trên giường mỉm cười.
“Hôm nay là một ngày vĩ đại của con đấy,” cô nói. “Cô biết con rất háo hức. Nửa đêm con mới ngủ được phải không?”
“Cô dậy rồi ạ?” Reynie hỏi. Cậu quá mê mải với các suy nghĩ của mình đến nỗi không để ý đến hơi thở của cô Perumal. Nhưng rõ ràng là cô đã chú ý đến nhịp thở của cậu.
“Cô cũng háo hức,” cô Perumal nói. “Cô biết con sẽ thích điều ngạc nhiên của các con.”
Có điều gì đó trong biểu hiện của cô khiến Reynie chững lại. Cô vui mừng cho cậu, cậu biết - nhưng còn có điều gì đó khác nữa. Nó nhắc Reynie nhớ đến cái ngày cô lái xe đưa cậu đến dự các bài kiểm tra của ngài Benedict, khi đó cô đã cảm thấy tin tưởng cậu sẽ không còn cần đến cô với vai trò một gia sư nữa. Ánh mắt cô lúc này y như thế, nó phản chiếu sự hòa trộn giữa tự hào, kỳ vọng và một nỗi buồn thấy rõ. Nhưng bây giờ bọn họ đã là gia đình và Reynie biết không gì có thể khiến cô Perumal rời bỏ cậu. Vậy thì cô đang lo lắng về chuyện gì?
Ánh mắt cô Perumal đột nhiên thay đổi. Khẽ cười ngạc nhiên, cô quay mặt đi và khi quay lại cô khiển trách. “Cô quên mất con đọc được các biểu cảm khuôn mặt giỏi đến mức nào,” cô nói. Cô lúc lắc một ngón tay. “Con không được suy xét mọi điều quá kỹ càng, Reynie, nếu con không muốn làm mất đi sự ngạc nhiên của mình.”
Họ cùng nhau đánh thức mẹ cô Perumal dậy - giấc ngủ của bà chẳng hề bị ảnh hưởng bởi tiếng gà trống gáy, nhưng luôn dễ bị quấy nhiễu khi bị cù vào gan chân - và sau khi bà tỉnh giấc cười lớn và gọi hai cô cháu là những tên côn đồ, họ cùng dọn dẹp chuẩn bị sẵn sàng lên đường.
Cùng với cái cảm giác cam chịu, Reynie mặc chiếc áo sơ mi mà Số Hai gửi đến cho cậu vào tháng trước nhân dịp sinh nhật. Cậu biết nó là biểu hiện tình cảm yêu mến của cô ấy, nhưng vẫn không thể không nhăn mũi khi nhìn chiếc sơ mi này. Lý lẽ thuyết phục không thể phủ nhận của Số Hai là thời trang đẹp có nghĩa là sự kết hợp ăn ý giữa quần áo với màu da của người đó (tủ quần áo của cô hầu hết toàn bộ đều là màu vàng làm nổi bật thêm nước da mai mái vàng của cô), và thật hiển nhiên khi cô nghĩ chiếc áo sơ mi hoa hòe hoa sói tươi mát này sẽ hoàn toàn phù hợp với Reynie. Nó đúng là vừa vặn với cậu - phần nào thôi - nhưng Reynie không thể tưởng tượng nổi có chiếc áo nào xấu xí hơn, hay là kém thoải mái hơn (nó được làm từ vải bạt, “cho bền”, Số Hai đã viết như thế), còn bây giờ cậu mặc nó chỉ vì ngày hôm nay sẽ gặp cô.
“Cả cậu nữa à?” Sticky lầu bầu khi Reynie gặp cậu bạn ở hành lang. Sticky đang mặc một chiếc sơ mi màu nâu nhạt làm từ thứ chất liệu gì đó độn bông dày cộp - nửa thân mình cậu bé trông có vẻ phình ra - và đang nhễ nhại mồ hôi bất chấp không khí giá lạnh buổi sáng. (Reynie nhớ ra ngày sinh nhật của Sticky là vào tháng Một; không nghi ngờ gì nữa, cái áo này có vẻ phù hợp hơn với thời điểm đó.) “Họ bắt mình mặc nó,” Sticky nói, dứ dứ ngón cái về phía căn phòng cậu dùng chung với bố mẹ. Cậu bạn nhìn Reynie từ trên xuống dưới. “Cậu có nhận thấy cậu trông giống một cái túi xách không?”
“Ít nhất mình không sưng phồng lên,” Reynie trả miếng. “Đi tìm Kate thôi nào.”
Tuy nhiên, trước khi hai đứa kịp leo lên gác, Kate đã trượt xuống thành cầu thang rồi. Trước sự thất vọng của hai đứa, cô bạn đang mặc chiếc quần jean xanh lơ và một chiếc áo sơ mi bình thường đến hoàn hảo. Cô bé đáp xuống đất bên cạnh chúng với một nụ cười tươi rói vui vẻ. “Cả hai sao trông đẹp trai quá vậy trời! Các cậu sắp đi dự tiệc à?”
Sticky khoanh hai cánh tay độn bông dày cộp trước ngực. “Thế này thật không thể chấp nhận được, Kate. Cậu cần quay ngay lên trên đó và mặc vào món quà sinh nhật của cậu.”
“Chắc chắn rồi;” Reynie thêm vào. “Thắng áp đảo, Kate. Tất cả chúng ta chịu khổ cùng nhau.”
Kate đang cọ cọ vào ống tay áo vải bạt của Reynie để cảm nhận nó. Cô bé huýt sáo và tặng cho cậu bạn một cái nhìn thương tiếc. “Xin lỗi, nhưng cái của mình quá nhỏ nên mình đã cắt nó và làm những cái bao túi từ chỗ vải đó. Mình đã cho cậu xem chúng rồi phải không?” Cô bé hào hứng lật mở cái nắp giỏ. “Nó là một chất liệu rất bền, thế nên...”
“Cậu đã chọ bọn tớ xem rồi,” Sticky nói bằng giọng phòng vệ. “Rốt cuộc, quà của cậu vốn là cái gì thế?”
“Của mình á? Ồ, nó là một cái áo gile có tua rua.”
Reynie đưa mắt nhìn cô bạn vẻ ngờ vực. “Nó thật sự quá nhỏ à?”
“À ừm,” Kate bẽn lẽn cười nói. “Đến giờ thì sẽ là thế.”
***
Ngày vẫn còn khá sớm khi chiếc xe chở hàng và chiếc xe kín mui phóng đi, những con người háo hức đi trên đó mới nghỉ ngơi được một chút nhưng đã được ăn uống ngon lành. Moocho Brazos đứng trên sân trang trại vẫy tay tạm biệt cho tới khi mấy chiếc xe mất hút nơi ngọn đồi xa xa. Rồi anh thở dài, buồn bã vuốt vuốt bộ ria mép. Anh đã rất gắn bó với người bạn trẻ tràn trề sức sống ấy, nên trước sự ra đi của Kate, anh thấy trang trại giờ đây thật ảm đạm. Lắc đầu vẻ sầu muộn, Moocho hướng tới khu vườn nơi có khá nhiều cây đang cần được chăm sóc.
Vì vậy vài phút sau, khi một thanh niên đi chiếc vespa đến, sân trang trại chỉ còn trống không.
Đầu tiên chàng trai rung chuông gọi - anh ta kéo vài lần - rồi đi tới kho thóc nơi anh phát hiện ra một con gà trống đang tuyệt vọng dùng mỏ gắp thóc vào đầy cái xe kéo bé xíu. Quang cảnh này làm anh ta giật mình, nhưng nhanh chóng vượt qua thắc mắc trong lòng và tiếp tục cuộc tìm kiếm để xác định người nhận bức điện tín anh ta mang đến. Khi anh ta hướng ra phía sau kho thóc (sẽ mất ít thời gian trước khi anh ta thử tìm đến vườn cây ăn trái), người thanh niên này - một nhân viên của cửa hiệu tạp hóa trong thị trấn kiêm dịch vụ điện tín - đang hy vọng ít nhất có ai đó ở đây. Công việc của anh ta là chuyển phát điện tín cho “bất cứ ai ở trang trại Wetherall.” Anh ta biết ở đây không có điện thoại, điều đó lý giải nhu cầu cần có điện tín. Người chủ già nua ở cửa hiệu tạp hóa nói với anh ta đây là bức điện tín đầu tiên họ được yêu cầu chuyển đi trong nhiều năm nay. Và nó là một bức điện rất khẩn cấp, rất đáng tò mò. Nó ghi:
CÁC EM KHÔNG ĐƯỢC ĐẾN STOP QUÁ NGUY HIỂM STOP GỌI CHO CHỊ NGAY VÀ CHỊ SẼ NÓI CHO CÁC EM BIẾT TIN TỨC STOP ÔI NÓ QUẢ THẬT LÀ TIN XẤU STOP NHẮC LẠI LẦN NỮA ĐỪNG ĐẾN NHƯNG GỌI ĐIỆN NGAY LẬP TỨC VÌ CHỊ LO SỢ CHO AN TOÀN CỦA CÁC EM STOP YÊU MẾN VÀ RẤT TIẾC RHONDA[1]
[1] Trong điện tín “stop” nghĩa là dấu chấm câu.
Mục LụcNhãn: Giải Cứu Ngài Benedict, Huyền Bí, Kỳ Ảo, Thế giới kỳ bí của Ngài Benedict, Trenton Lee Stewart, Văn học phương Tây
0 Nhận xét:
Đăng nhận xét
<< Trang chủ